Hiển thị các bài đăng có nhãn HOC HỎI. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn HOC HỎI. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2018

Chúa Giêsu hiện diện bao lâu trong Bánh Thánh sau khi ta rước lễ?

Chúa Giêsu hiện diện bao lâu trong Bánh Thánh sau khi ta rước lễ?

Gia sản quý báu nhất mà Giáo Hội Công Giáo có được chính là bí tích Thánh Thể - là chính Chúa Giêsu ẩn mình trong chất thể bánh rượu. Chúng ta xác tín, "Trong bí tích Thánh Thể cực trọng hiện diện "mình và máu, cùng với linh hồn và thần tính, của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và vì vậy, Đức Kitô được ẩn chứa cách đúng đắn, chân thật và bản thể." (Giáo lý điều 1374)

Sự hiện diện này của Chúa Kitô không chấm dứt ngay lập tức khi ta rước lễ. Giáo lý dạy thêm rằng "Sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể bắt đầu vào thời điểm truyền phép và kéo dài bao lâu chất thể Bánh Rượu còn tồn tại." (Giáo lý điều 1377)

Vậy điều đó có ý nghĩa thế nào với chuyện ta rước Người vào miệng? Sự hiện diện thật sự của Người trong cơ thể ta sẽ kéo dài bao lâu?

Có một câu chuyện nổi tiếng trong cuộc đời của Thánh Philipphê Nêri có thể giúp ta trả lời thắc mắc trên. Một ngày kia, khi Thánh Philipphê Nêri cử hành Thánh lễ, có một người đàn ông rước lễ và rời khỏi nhà thờ sớm. Người đàn ông có vẻ không quan tâm gì đến Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Thể, nên Thánh Philipphê quyết định sử dụng cơ hội này để dạy một bài học. Ngài sai hai cậu giúp lễ cầm hai cây nến cháy đi theo người đàn ông kia ra khỏi nhà thờ. Sau khi đi qua vài con đường của thành Rôma, người đàn ông phát hiện hai cậu giúp lễ cứ tò tò đi theo mình. Bối rối quá, ông ta bèn quay lại nhà thờ và hỏi Thánh Philipphê Nêri cho rõ lý do của chuyện đó. Thánh nhân đáp: "Chúng tôi phải tôn kính đúng mức đối với Chúa chúng ta, Đấng mà ông đang mang trong mình ông. Bởi ông xao lãng việc tôn thờ Người, tôi phải gửi hai cậu lễ sinh này đi để làm điều đó thay ông." Người đàn ông kinh ngạc với lý do này, và từ đó về sau nhất quyết tôn kính Chúa Thánh Thể cho xứng đáng sau khi rước lễ.

Có thể tin rằng chất thể Bánh Thánh Thể tồn tại trong 15 phút sau khi vào miệng ta. Đó là theo sinh lý tự nhiên, và căn cứ vào giáo lý điều 1377, sự hiện diện của Chúa kéo dài bao lâu Bánh còn tồn tại nguyên hình dạng.

Do đó, nhiều vị Thánh khuyên ta nên dành trung bình 15 phút cầu nguyện sau khi rước Thánh Thể để tạ ơn Chúa. Điều này giúp linh hồn cảm nếm trọn vẹn sự hiện diện của Chúa và có một quan hệ "tim cạnh tim" thật sự với Chúa Giêsu.

Trong thế giới bộn bề ngày nay, xem ra khá khó khăn để ở lại cầu nguyện lâu sau Thánh lễ, nhưng chắc chắn không có nghĩa là chúng ta không thể cầu nguyện một lát. Điều cực kỳ quan trọng là ta ý thức mạnh mẽ về sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong Bánh Thánh mà ta ăn vào miệng, tồn tại trong lòng ta nhiều phút, và ban cho ta khoảnh khắc đặc biệt là ta có thể giao tiếp với Chúa và cảm nghiệm tình yêu của Người.

Nếu có ngày nào bạn quên Chúa hiện diện trong bạn mà bỏ khỏi nhà thờ sớm, đừng ngạc nhiên nếu thấy cha xứ cho vài người giúp lễ tò tò đi theo bạn ra xe về nhà nhé.

Gioakim Nguyễn chuyển dịch


HÃY XEM LẠI LỐI SỐNG ĐẠO CỦA CHÚNG TA!

Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.

Trước và sau tết Nguyên Đán, người dân Việt Nam nói chung, nhất là miền Bắc, không ai lại không biết đến ít nhiều lễ hội.

Theo thống kê 2009 trên vi.wikipedia, hiện cả nước có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). Các địa phương có nhiều lễ hội là Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Hải Dương và Phú Thọ.

Qua những lễ hội này, chúng ta thấy được một phần nào truyền thống, văn hóa của dân tộc Việt Nam. Điều này rất bổ ích, nhất là cho thế hệ trẻ! Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có khá nhiều nơi đã lạm dụng lễ hội để kinh doanh, buôn bán và mê tín dị đoan. Từ đó, kéo theo một loạt những hệ lụy không đẹp như trộm cắp, đánh đập, chửi bới và hành xử thiếu văn hóa ngay chốn linh thiêng…, làm cho lễ hội nhuốm màu trần tục!

Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại việc những nhà lãnh đạo tôn giáo thời Đức Giêsu đã biến đền thờ là chốn linh thiêng, là nơi dành riêng để tôn thờ Thiên Chúa thành nơi buôn bán và trao đổi tiền bạc. Thấy vậy, Đức Giêsu đã thẳng tay đánh đuổi để trả lại cho đền thờ đúng với ý nghĩa của nó.

Qua đó, Ngài muốn dạy cho chúng ta rất nhiều bài học sau biến cố này.

1. Lý do khiến Đức Giêsu đánh đuổi con buôn

Đền thờ Giêrusalem là một đền thờ nguy nga, tráng lệ vào bậc nhất thời đó. Đền thờ này được dùng vào việc tôn thờ Thiên Chúa và là nơi quy tụ những người Dothái hằng năm vào dịp lễ Vượt Qua.

Câu chuyện căng thẳng giữa Đức Giêsu và dân chúng đã xảy ra đúng vào thời điểm này.

Khởi đi từ việc Đức Giêsu quan sát và thấy được người ta đổi tiền, mua bán súc vật ngay trong đền thờ, làm cho đền thờ trở nên ô uế!

Điều đáng nói là: theo quy định, những con vật được dùng vào việc tế lễ phải là con vật lành lặn không tỳ vết. Những người chính thức được các chức sắc chỉ định mới đủ thẩm quyền để tuyên bố con vật xứng đáng sau khi đã kiểm tra! Tuy nhiên, con vật đủ kiều kiện để dùng vào việc tế lễ phải là con vật được mua trong nơi quy định của các tư tế và nó sẽ đắt gấp 15 lần so với bên ngoài. Hơn nữa, người mua còn phải trả một loại phí không nhỏ cho những người kiểm tra!

Bên cạnh đó, nơi đây còn diễn ra chuyện đổi tiền. Theo luật thì buộc mỗi người Dothái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, tương đương với hai ngày lương công nhật.

Vì là lễ Vượt Qua không chỉ dành riêng cho người Dothái tại chỗ, mà còn cho cả những người Dothái ở nhiều nơi khác hội tụ về, nên tiền họ mang theo cũng đủ loại…. Nhưng tiền nộp vào đền thờ lại chỉ được chấp nhận là thứ tiền của người Dothái, vì họ cho rằng chỉ có tiền này mới xứng đáng để nộp thuế đền thờ, các thứ tiền khác là ô uế!

Chính vì lý do đó nên việc đổi tiền đã diễn ra tại nơi đây với giá cắt cổ.

Chứng kiến cảnh tượng đó, cộng thêm: “Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa hun đúc tâm hồn”(Tv 68.10), nên Đức Giêsu đã bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Ngài đã lấy dây bện thành một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền (x. Ga 2, 14-17).

Khi có hành vi ấy, Đức Giêsu cho thấy những hệ lụy đầy bất công của những kẻ lãnh đạo tinh thần thời bấy giờ, đó là: họ đã nhân danh tôn giáo để đè đầu cưỡi cổ và bóc lột dân, nên Ngài đã không thể chấp nhận tình trạng ấy diễn ra ngay tại nơi dành riêng để tôn thờ Thiên Chúa, vì thế, Đức Giêsu nói: “Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Lời cảnh cáo này của Đức Giêsu cho thấy Ngài đã nhắc lại lời của Ngôn Sứ Isaia khi xưa: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Is 56,7).

2. Thực trạng đời sống đạo của chúng ta

Khi xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, Đức Giêsu mặc khải và dạy cho chúng ta những bài học thật bổ ích, đó là:

Cần cẩn trọng và đừng nên mừng vội khi thấy mỗi Chúa Nhật và các dịp lễ trọng, người đi lễ nườm nượp và ngồi chật kín cả nhà thờ, nhất là tuần làm phúc (trước Tuần Thánh) và Tuần Thánh. Có lẽ về khía cạnh này, Giáo Hội Việt Nam đứng đầu bảng trên toàn thế giới. Đây là một tín hiệu rất đáng mừng và rất nên khuyến khích cũng như phát huy.

Tuy nhiên, điều đáng tự hào ấy lại cần phải xem xét lại, vì biết bao nhiêu người chỉ tập chung vào những chuyện bên ngoài như đi “xem lễ” chứ không “sống thánh lễ” trong đời sống của mình.

Lại có những người siêng năng tham dự thánh lễ và chăm chú nghe giảng rồi lên rước lễ rất sốt sắng như thiên thần. Nhưng khi ra khỏi nhà thờ, họ sẵn sàng chửi bới, nói hành nói xấu, buôn gian bán lận, ăn chơi trác táng… không khác gì dân chơi thứ thiệt hạng sang ngoài đời! Hơn nữa, việc đi lễ, thuộc kinh là một chuyện, còn chuyện coi bói, xem quẻ, thờ ông địa, bái gốc đa, khấn gốc gạo với viện cớ rằng: “Có thờ có thiêng, có kiêng có lành…” lại là chuyện thường tình xảy ra hằng ngày ngay tại các cộng đoàn tín hữu với những sinh hoạt tôn giáo sầm uất!

Và, vẫn còn đó những người rất năng nổ tham gia chuyện quyên góp để xây dựng những công trình tôn giáo, nhưng đền thờ tâm hồn lại không màng chi đến hoặc có quan tâm thì cũng chẳng khác gì cưỡi ngựa xem hoa! Vì thế, việc xây dựng đền thờ tâm hồn với những nét đẹp như: từ bi, nhân hậu, bao dung, tha thứ, xây dựng tình huynh đệ, tạo sự hiệp nhất, liên đới, cảm thông…, thì lại quá xa lạ đối với những người xem ra có vẻ đạo đức ấy!

Hơn nữa, điều đáng buồn nhất, đó là nhiều khi chúng ta lại đi lại chính vết xe của những nhà lãnh dạo tôn giáo khi xưa, đó là: nhân danh lề luật, tôn giáo và nhân danh Thiên Chúa để làm bình phong, nhằm ngụy trang cho những thói lưu manh, gian dối bẩn thỉu của mình!!!

Tắt một lời, tin Chúa như vậy là hình thức, là vỏ bọc, là đầu môi chóp lưỡi, còn thực chất bên trong là rỗng tuếch! Tin Chúa như vậy được ví như tin có mùa vụ. Tin lúc thuận tiện. Tin khi có lợi mà thôi…
.
3. Sứ điệp Lời Chúa

Bài học cho chúng ta hôm nay chính là: ngoài việc tôn kính nhà thờ, nhà nguyện là nơi dành riêng để thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta còn có một đền thờ khác, đó là đền thờ thân xác của mỗi người. Thánh Phaolô nói: “Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa” (1 Cor 3, 16).

Vì vậy, mỗi người chúng ta phải có bổn phận xây dựng cho mình một ngôi đền thờ xứng đáng để cho Thiên Chúa ngự. Ngôi đền thờ này phải được xây dựng bằng nền móng vững chắc là đức tin và lòng mến thật tâm. Cần phải được trang trí bằng những việc đạo đức, bác ái, khoan dung, quảng đại, thông cảm và tha thứ.

Mặt khác, chúng ta đang sống trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy canh tân để đổi mới. Canh tân lối sống cũ không phù hợp với giá trị Tin Mừng. Đổi mới từ con người tội lỗi, hình thức, hào nhoáng bên ngoài thành con người có chiều sâu nội tâm bên trong qua việc ăn năm sám hối thật lòng….

Ước gì sứ điệp Lời Chúa hôm nay được chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận và sống sao cho thật đẹp lòng Chúa, ngõ hầu xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự. Amen. 

Thứ Bảy, 17 tháng 2, 2018

HỌC HỎI PHÚC ÂM

HỌC HỎI PHÚC ÂM
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY NĂM B
(Mc 1,12-15)

 Lời Chúa:
12Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. 13Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xatan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.
 14Sau khi ông Gioan bị nộp, Ðức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. 15Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Triều Ðại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.

 Học hỏi:
 1. Ngay trước khi và ngay sau khi Đức Giêsu bị cám dỗ, có những biến cố quan trọng nào xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu?
 2. Đọc Mc 1, 10. 12.‎‎ Cho biết những hoạt động khác nhau của Thần Khí nơi con người Đức Giêsu. 
 3. Theo ‎bạn, tại sao Thần Khí lại "đẩy" Đức Giêsu vào hoang địa? Trong 40 ngày ở đó, Đức Giêsu làm gì? 
 4. Bốn mươi ngày là khoảng thời gian bao lâu? Đọc Sáng thế 7,4; Xuất hành 24,18; 34,28; Dân số 13,25; 1 Samuel 17,16; 1 Vua 19,8.15.
 5. Đối với Đức Giêsu, Xa-tan là ai, nó làm gì? Đọc Mc 1,13; 3,23. 26; 4,15; 8,33.
 6. Thánh Mác-cô có cho ta biết Đức Giêsu bị cám dỗ về chuyện gì không? Đọc Mt 4,1-11 và Lc 4,1-13. Cuối cùng Đức Giêsu có thắng được cơn cám dỗ đầu tiên của Xa-tan không?
 7. Theo bạn, nhờ đâu mà Đức Giêsu chiến thắng được cám dỗ của Xa-tan?
 8. Bạn nghĩ gì về chuyện Đức Giêsu sống bên dã thú và có các thiên sứ phục vụ Người?
 9. Theo bạn, tại sao Giáo hội chọn đọc bài Phúc âm này trong Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay?
 10. Cách đây hai ngàn năm, Đức Giêsu nói: Nước Thiên Chúa đã đến gần. Theo bạn, hôm nay, Nước Thiên Chúa có đến gần hơn xưa không? Khi nào thì Nước Thiên Chúa mới đến cách viên mãn trên vũ trụ này? Đọc 1 Côrintô 15, 23-28.





&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&


Đó là ngày 21 tháng 9, (ngày lễ kính thánh Matêô), cũng như nhiều thanh niên trẻ ở tuổi mười bảy, cùng với các bạn, Jorge Bergoglio chuẩn bị Ngày lễ Sinh viên tổ chức hàng năm vào dịp tựu trường. Tôi bắt đầu ngày làm việc bằng một vòng đi bộ đến giáo xứ. Lúc đó tôi là một thanh niên công giáo siêng năng giữ đạo, đi nhà thờ ở San José, thuộc địa hạt Flores, Buenos Aires.
Khi đến nơi, tôi gặp một cha xứ mà tôi chưa quen biết. Cảm thấy cha xứ là một người có sức mạnh thiêng liêng cao độ, tôi xin xưng tội. Ngay lập tức, tôi hiểu cuộc xưng tội này rất khác thường, nó khơi động đức tin. Nó cũng làm cho tôi nhận ra các dấu hiệu của ơn gọi, đến mức tôi thấy không cần phải ra nhà ga để đi gặp các bạn. Tôi về nhà với một xác tín: tôi muốn … trở thành linh mục. Đó là một ân huệ vô biên mà tôi được ban phúc một cách bất ngờ. Cha giải thích như sau:
“Trong lần xưng tội đó, trong lòng tôi gợi lên một lòng hiếu kỳ, tôi không biết như thế nào, nhưng nó đã làm thay đổi cuộc đời của tôi. Tôi muốn nói là chính tôi cũng cảm thấy ngạc nhiên, tôi không dè,” cha nói như vậy sau hơn năm mươi năm. Bây giờ, Bergoglio giải thích giai đoạn đó như sau: “Một cuộc gặp gỡ ngạc nhiên, sững sờ. Tôi hiểu có ai chờ tôi. Đó là cái gọi là trải nghiệm tôn giáo: sững sờ khi đứng trước một người đang chờ bạn. Từ đó, đối với tôi, Chúa là người “tìm  tôi trước .”  Tôi tìm Người, nhưng Người cũng tìm tôi. Tôi mong muốn thấy Người, nhưng chính Người “làm bước trước .”
Jorge Bergoglio nói thêm, không những “sững sờ khi gặp gỡ” đã khơi dậy ơn gọi cho tôi mà còn qua giọng điệu thương xót Chúa đã nói khi kêu gọi tôi, một giọng điệu mà với thời gian, đã trở thành nguồn cảm hứng cho sứ vụ của tôi.
Dù vậy, tôi chưa vào chủng viện ngay. “Câu chuyện ngừng ở đó,” ngài nói. Vì tôi còn học xong trung học và tiếp tục làm việc bán thời gian trong phòng thí nghiệm hóa học, tôi không nói nguyện ước của mình cho ai nghe. Tôi phải chắc về ơn gọi của mình, những năm sau đó, tôi trải qua cơn khủng hoảng tăng triển, qua những giai đoạn cô đơn. Bergoglio nói, đó là một loại “cô đơn thụ động”, chịu đau khổ mà không biết lý do, giống như sau một cơn khủng hoảng hay một mất mát, khác với “cô đơn tích cực”, loại cô đơn cảm nhận khi đứng trước một quyết định siêu việt. Kinh nghiệm này đã làm cho tôi học sống với cô đơn. Cuối cùng, năm hai mươi mốt tuổi, tôi vào chủng viện và quyết định vào dòng Tên.
- Lý do nào cha chọn dòng Tên?
- Đúng ra thì tôi không biết nên chọn dòng nào. Rõ ràng là tôi có ơn gọi. Sau khi qua chủng viện ở giáo phận Buenos Aires, tôi vào Dòng Tên vì tôi thích đặc tính của Dòng Tên, là cánh tay vững chắc của Giáo Hội, nói theo danh từ quân đội, xây dựng trên nền tảng vâng lời và kỷ luật và cũng vì dòng Tên có sứ vụ truyền giáo. Đã có lúc tôi muốn đi truyền giáo ở Nhật, nơi từ lâu dòng Tên đã thực hiện những công trình quan trọng. Nhưng vì sức khỏe không cho phép, nên tôi không đi được. Tôi nghĩ có người sẽ “nhẹ nhõm” nếu tôi không ở đây mà đi qua bên kia … Các bạn có nghĩ như vậy không? (Cười)
- Phản ứng của gia đình như thế nào khi biết cha sẽ đi tu?
- Trước hết tôi nói với cha tôi, ông chấp nhận. Còn ngoài cả mong đợi, ông rất vui. Ông hỏi tôi có chắc về quyết định của tôi không. Rồi chính ông nói với mẹ tôi, là bà mẹ thương con, bà bắt đầu nghi. Phản ứng của bà hơi khác. “Mẹ không biết, nhưng mẹ không còn gặp con … Con chờ thêm một chút … Con là con cả … Con còn tiếp tục làm việc … Con còn phải học xong .” Sự thật là mẹ khó xử.
- Cha có lầm khi chọn người để báo tin đầu tiên không?
- Tôi biết cha tôi hiểu tôi hơn. Phải nói là bà nội tôi có lòng đạo rất mạnh, rất sâu và cha tôi thừa hưởng đức tin này, sức mạnh này. Nỗi đau sâu đậm của việc xa xứ tiếp tục làm phần còn lại. Vì thế khi nghe tôi đi tu, ông rất vui, còn mẹ tôi thì có cảm tưởng như mình mất con.
- Và sau đó thì như thế nào?
- Khi tôi vào chủng viện, mẹ tôi không muốn đi theo. Phải mất nhiều năm bà mới chấp nhận quyết định của tôi. Hai mẹ con không giận nhau, nhưng dù tôi về thăm nhà, mẹ tôi không bao giờ vào chủng viện thăm tôi. Cuối cùng khi mẹ chấp nhận, mẹ cũng giữ một vài khoảng cách. Ở nhà tập Córdoba, mẹ có đến thăm tôi. Mẹ giữ đạo, có đức tin nhưng mẹ nghĩ sự việc đi quá nhanh, đó là quyết định cần phải có một thời gian để suy nghĩ. Mẹ rất gắn bó, tôi còn nhớ hình ảnh mẹ quỳ trước mặt tôi xin tôi ban phép lành cho bà, nhân ngày lễ chịu chức của tôi.
- Có thể bà nghĩ cha không có ơn gọi … cha sẽ không kiên trì …
- Tôi không biết. Có điều tôi nhớ lại, khi tôi nói chuyện này với bà nội, bà đã biết nhưng giả bộ như chưa biết, bà nói với tôi: “Giỏi, nếu Chúa gọi con thì chúc lành cho con .”  Sau đó bà nói thêm ngay: “Bà cầu nguyện cho con và con đừng quên là cánh cửa gia đình luôn luôn mở rộng chờ con và không ai trách con nếu vì bất cứ lý do gì con về lại nhà .” Phản ứng này, bây giờ người ta gọi là phản ứng thoa dịu, là phản ứng khi đứng trước một người đang bước một bước quan trọng, nó đã cho tôi một bài học ứng xử khi đối diện với một người đang có một quyết định tối hậu trong cuộc đời của họ.
- Dù sao, quyết định của cha cũng không hấp tấp, cha chờ bốn năm mới vào chủng viện.
- Phải nói là Chúa để tôi vài năm nghỉ ngơi. Giống như cả nhà, tôi giữ đạo. Đầu óc tôi không hoàn toàn hướng về vấn đề tôn giáo. Tôi còn quan tâm đến chính trị, dù chỉ trong suy nghĩ. Tôi đọc Nuestra, Palabra, Propósitos, các tờ báo của Đảng Cộng sản, tôi mê mẫn các bài viết của nhà soạn kịch Leonidas Barletta trong lãnh vực văn hóa. Các bài đọc này góp phần đào tạo cho tôi về mặt chính trị, nhưng tôi chưa bao giờ theo cộng sản.
- Với chừng mực nào cha nghĩ đây là quyết định của cha và đâu là do Chúa  chọn lựa.
- Ơn gọi tu trì là một ơn gọi Thiên Chúa dành cho một tâm hồn biết chờ đợi Người, dù đó là việc chờ đợi ý thức hay mới chỉ trong vô thức. Khi đọc kinh nhật tụng, tôi luôn được đánh động ở đoạn Phúc Âm trình thuật việc Đức Giêsu đã nhìn Mathêu, với cách thức có thể nói lên một cách nào đó như người “được tuyển chọn do lòng thương xót”. Đó chính là điều tôi cảm nghiệm về việc Thiên Chúa đã nhìn tôi như vậy khi tôi xưng tội. Và đó cũng là cách Chúa đòi hỏi tôi phải nhìn người khác như thế: với tấm lòng thương xót vô biên, coi như chính tôi chọn lựa họ thay cho Người, không loại trừ người nào cả, vì mọi người đều là kẻ được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn. “Được thương xót và được tuyển chọn” là câu đi theo suốt sứ vụ của tôi khi tôi được tấn phong Giám Mục, và đó là một trong những điểm then chốt trong đời sống tu trì của tôi: lòng thương xót, và việc chọn lựa những ai đó là để nhắm đến một sứ mệnh. Sứ mệnh ấy có thể tóm lược như sau: “Hỡi con, con là người được yêu mến vì chính con, con đã được tuyển chọn và điều duy nhất Ta chờ đợi ở con là, con hãy để cho Ta thương con .” Đó chính là vai trò tôi được Thiên Chúa trao phó cho tôi.
- Vì thế mà cha nói, Chúa luôn luôn làm “bước trước”?
- Đương nhiên. Khi đứng trước tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa đã tự nói về mình bằng những chữ sau: “Ta là cây gậy của cây hạnh đào .” Hoa hạnh đào là hoa đầu tiên nở vào mùa xuân. Thánh Gioan nói: “Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước, và đó là tình thương .” Đối với tôi, mọi trải nghiệm thiêng liêng mà không có liều lượng kinh ngạc, sững sờ này, liều lượng kiên nhẫn giữ tâm hồn chúng ta trong tình thương và lòng thương xót, thì đều nguội lạnh; nó không làm cho chúng ta dấn thân trọn vẹn, nó chỉ là một kinh nghiệm xa vời không đưa chúng ta vào con đường siêu việt. Đồng ý rằng để sống một kinh nghiệm siêu việt như vậy ở thời buổi này là rất khó, do nhịp sống thay đổi quá nhanh chóng, quá chóng mặt, do không có một tầm nhìn lâu dài. Vì thế, trong kinh nghiệm thiêng liêng, chỗ nương tựa rất quan trọng. Tôi luôn luôn có cảm nhận sâu sắc về những gì nhà văn Ricardo Guiraldes nói trong quyển Don Segundo Sombra, về hình ảnh nước đi theo suốt cuộc đời của ông. Khi còn nhỏ, nước như dòng suối nhỏ chảy qua các khe đá; đến trung niên, nước là dòng sông hùng vỹ và đến khi già, nước là vùng cảng yên bình.
- Cha có gợi ý nào để tạo ra những nơi chốn nương tựa không?
- Các cuộc tĩnh tâm là những nơi chốn nương tựa có tổ chức quy củ, ở đó nhịp sống hàng ngày chậm lại để tập trung vào cầu nguyện. Nhưng nếu tĩnh tâm thiêng liêng mà chỉ để ngồi nghe các băng đĩa có dư âm tôn giáo, để khơi gợi và để có một câu trả lời thì không giúp được gì, nó không thoa dịu được tâm hồn. Cuộc gặp gỡ với Chúa phải được khơi dậy từ bên trong. Tôi phải mở lòng ra trước sự hiện diện của Chúa, được Lời Chúa dạy dỗ và tiến triển theo chiều hướng Chúa muốn. Trọng tâm của các cuộc tĩnh tâm là cầu nguyện, đó là một trong những điểm mà theo tôi cần phải can đảm tiếp cận.
- Không đi tĩnh tâm có phải chỉ là vấn đề thời gian hay do tín hữu không đặt nặng nhu cầu thiêng liêng?
- Họ không đặt nặng nhu cầu thiêng liêng cho đến ngày họ trượt võ chuối và té ngã. Một cơn bệnh, một cơn khủng hoảng, một nỗi tuyệt vọng, một dự án đầy hy vọng nhưng không hình thành …. Tôi còn nhớ một biến cố mà tôi là chúng nhân đã xảy ra ở một phi trường làm cho tôi rất buồn. Đó là lúc hành khách vừa hạng nhất vừa hạng thường đứng chờ lấy hành lý ở thảm quay. Đó là lúc mà mọi người bình đẵng với nhau, ai cũng chờ và thảm quay làm mọi người ngang nhau. Bỗng, một trong những hành khách, một ông giám đốc công xưởng ai cũng biết, khá lớn tuổi, bắt đầu sốt ruột vì hành lý của ông chưa ra. Ông bực tức và bĩu môi như muốn nói: “Quý vị phải biết tôi là ai! Tôi phải là người được phục vụ trước .” Điều làm tôi ngạc nhiên nhất, đó là một người lớn tuổi, có chức vị cao mà lại mất kiên nhẫn như thế.
- Thường thường những người trẻ là những người thiếu kiên nhẫn, tuy họ có cả một cuộc đời trước mặt họ.
- Vì tôi biết cuộc sống của ông này, tôi có cảm tưởng như ông muốn sống lại huyền thoại Faust, cứ muốn trẻ hoài, không có khả năng hưởng sự khôn ngoan của tuổi già, tôi cảm thấy buồn. Tôi buồn vì thấy người này có mọi sự, sống dư dả, muốn gì có đó mà lại dễ giận chỉ vì chưa lấy được hành lý. Xét cho cùng, đó là người vò vỏ một mình, là hình ảnh những người mà Chúa muốn cho họ có hạnh phúc trong Chúa và với Chúa, không bắt buộc cứ phải là cha xứ hay chị nữ tu, là người thu xếp trọn đời sống của mình chung quanh mình, không thể nào vui hưởng cuộc sống để rồi cuối đời kết thúc như rượu vang biến thành dấm chua. Tôi thường dùng hình ảnh rượu vang biến thành dấm chua để nói đến mức độ trưởng thành thiêng liêng và mức độ trưởng thành nhân bản, bởi vì hai mức độ này đi song song với nhau. Nếu ai vẫn còn ở giai đoạn tuổi vị thành niên về mặt phát triển nhân bản thì về mặt thiêng liêng họ cũng ở giai đoạn đó.
- Theo cha, làm sao có được trải nghiệm cầu nguyện?
- Theo tôi, trải nghiệm này phải giống như trải nghiệm của do dự, của buông bỏ, khi trọn con người của mình thấm nhập trong sự hiện diện của Chúa. Đó là lúc sẽ có đối thoại, lắng nghe, biến đổi. Nhìn vào Thiên Chúa nhưng nhất là phải để cho Thiên Chúa nhìn mình. Riêng phần tôi, trải nghiệm thiêng liêng cầu nguyện tôi có được khi tôi cầu nguyện cao giọng, khi lần chuỗi hay khi đọc Thánh Vịnh. Hay khi tôi dâng thánh lễ ca tụng Bí Tích Thánh Thể. Nhưng giây phút tôi sống trải nghiệm sâu đậm nhất là lúc chầu Mình Thánh Chúa, khi không bị thời gian giới hạn. Đôi khi tôi ngồi ngủ, cứ để Chúa ở với mình. Tôi có cảm tưởng như đang ở trong tay một người nào, như Chúa đang cầm tay tôi. Tôi nghĩ phải đến được sự chân tình siêu việt của Thiên Chúa, là Đấng toàn năng nhưng lúc nào cũng tôn trọng tự do của chúng ta.
- Làm sao cha hiểu được cuộc sống của cha và sứ vụ của cha trước mặt Chúa?
- Tôi không muốn nói dối, phải nói đúng, tôi là người có tội, tôi được ưu đãi là được lòng thương xót của Chúa thương. Từ khi còn nhỏ, cuộc sống đã đưa tôi nhận lãnh những chúc vụ mà tôi phải điều khiển – từ khi tôi chịu chức, tôi được đặc trách làm giáo tập, hai năm sau làm giám tỉnh – tôi phải vừa làm vừa học, đi từ những sai lầm của mình, tôi phải nói thật, tôi phạm rất nhiều lỗi lầm. Các sai lầm, các tội lỗi. Sẽ không đúng nếu bây giờ tôi nói: “Tôi xin tha thứ về những tội và những tấn công mà tôi có thể đã phạm .” Hôm nay, tôi xin tha thứ về những tội và những tấn công mà tôi đã thật sự phạm.
- Chuyện gì là chuyện cha trách cha nhiều nhất?
- Điều làm cho tôi khổ là tôi đã không thông cảm và không công minh. Trong kinh cầu nguyện buổi sáng, khi đến lời nguyện, tôi xin được thông cảm và công minh, sau đó tôi xin những chuyện có liên quan đến những yếu kém trên con đường phục vụ của tôi. Điều tôi muốn là có được lòng thương xót, lòng tốt tối hậu. Nhưng tôi nhấn mạnh, tôi luôn luôn được Chúa thương, được Chúa nâng đỡ sau mỗi lần té ngã trong suốt cuộc đời tôi; Chúa đã giúp tôi đi trọn con đường, nhất là những giai đoạn khó khăn nhất, và nhờ đó, tôi học hỏi được. Trong một vài hoàn cảnh, khi đối diện với vấn đề, tôi đã bị lầm, tôi hành xử không đúng, tôi phải đi trở lại và xin lỗi. Xét cho cùng, nó làm cho tôi tốt vì kinh nghiệm giúp cho tôi hiểu những sai lầm của người khác.
- Người ta có thể nghĩ một tín hữu khi lên chức hồng y, họ có những ý tưởng rất rõ rệt trong đầu.
- Sai. Tôi không có tất cả mọi câu trả lời và tôi cũng không có tất cả mọi câu hỏi. Lúc nào tôi cũng đặt ra những câu hỏi mới. Nhưng những câu trả lời thì phải lập trình theo từng hoàn cảnh và phải chờ. Tôi thú nhận, một cách chung chung, với tính khí của tôi, câu trả lời đầu tiên đến trong đầu tôi không phải là câu trả lời đúng. Đứng trước một trạng huống, giải pháp đầu tiên tôi nghĩ đến chưa bao giờ là giải pháp tốt. Thật tức cười, nhưng đó là những gì đã xảy ra. Tôi phải học để dè chứng các phản ứng đầu tiên của tôi. Một khi dịu xuống, sau khi đi qua hố thẳm của cô đơn, tôi mới đến gần được những gì cần phải làm. Nhưng không ai tránh được trạng thái cô đơn khi phải quyết định. Bạn có thể cần đến một lời khuyên nhưng chính bạn là người phải quyết định. Người ta có thể làm rất nhiều chuyện sai với những quyết định của mình. Người ta có thể rất bất công. Vì thế, điều quan trọng là phải đặt mình trong bàn tay Chúa.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Thứ Hai, 5 tháng 2, 2018

Cùng nhau học giáo lý

52. Hỏi: Ai đã tạo dựng vũ trụ?
Thưa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguyên lý duy nhất và không thể phân chia của việc tạo dựng, mặc dù công trình tạo dựng vũ trụ được đặc biệt gán cho Chúa Cha.
53. Hỏi: Vũ trụ được dựng nên để làm gì?
Thưa: Vũ trụ được dựng nên để tôn vinh Thiên Chúa, Ðấng đã muốn biểu lộ và thông ban lòng nhân hậu, chân lý và vẻ đẹp của Ngài. Mục đích tối hậu của việc tạo dựng là để Thiên Chúa, trong Ðức Kitô, "có toàn quyền trên muôn loài" (1Cr 15,28), vì vinh quang của Ngài và hạnh phúc của chúng ta.
54. Hỏi: Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ như thế nào?
Thưa: Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ cách tự do, bằng sự khôn ngoan và tình yêu. Vũ trụ không phải là sản phẩm của một luật tất yếu nào đó, của một định mệnh mù quáng hoặc bởi ngẫu nhiên. Thiên Chúa đã sáng tạo "từ hư vô" (ex nihilo; 2Mcb 7,28), một thế giới được sắp xếp trật tự và tốt lành, nhưng Ngài vô cùng cao cả siêu việt trên mọi loài. Ngài gìn giữ vạn vật trong sự hiện hữu, nâng đỡ và ban cho nó khả năng hoạt động và hướng dẫn nó đến sự trọn hảo nhờ Chúa Con và Chúa Thánh Thần
55. Hỏi: Sự Quan phòng của Thiên Chúa là gì?
Thưa: Sự Quan phòng của Thiên Chúa là những sắp xếp nhờ đó Thiên Chúa hướng dẫn các thụ tạo của mình đến chỗ hoàn hảo mà Ngài đã định cho chúng. Thiên Chúa là tác giả tối cao của kế hoạch Ngài; nhưng để thực hiện kế hoạch đó, Ngài cũng sử dụng sự cộng tác của các thụ tạo. Ðồng thời, Ngài ban cho chúng phẩm giá là tự hoạt động và trở thành nguyên nhân cho nhau.
56. Hỏi: Con người cộng tác vào sự Quan phòng của Thiên Chúa như thế nào?
Thưa: Tuy tôn trọng tự do của con người, nhưng Thiên Chúa ban cơ hội và đòi hỏi con người cộng tác với Ngài qua hành động, kinh nguyện và cả sự đau khổ của họ, khi gợi lên trong họ "ước muốn cũng như hành động theo lòng nhân hậu của Ngài" (Pl 2,13).
57. Hỏi: Nếu Thiên Chúa toàn năng và quan phòng, tại sao lại có sự dữ?
Thưa: Chỉ có toàn bộ đức tin Kitô giáo mới có thể trả lời cho câu hỏi vừa bi thảm vừa mầu nhiệm này. Thiên Chúa không bao giờ là nguyên nhân của sự dữ, dù trực tiếp hay gián tiếp. Ngài làm sáng tỏ mầu nhiệm sự dữ nhờ Con Ngài là Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và đã sống lại để chiến thắng sự dữ luân lý to lớn là tội lỗi của con người, nguồn gốc của tất cả những sự dữ khác.
58. Hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại cho phép sự dữ xuất hiện?
Thưa: Ðức tin giúp chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa đã không cho phép sự dữ xuất hiện, nếu Ngài không làm phát sinh điều thiện hảo từ chính sự dữ đó. Ðiều này Thiên Chúa đã thực hiện cách tuyệt vời trong cái chết và sự sống lại của Ðức Kitô. Thật vậy, từ sự dữ luân lý lớn nhất, là cái chết của Con Ngài, Ngài đã rút ra những điều thiện hảo vĩ đại nhất, đó là việc tôn vinh Ðức Kitô và là ơn cứu độ chúng ta.
59. Hỏi: Thiên Chúa đã tạo dựng những gì?
Thưa: Thánh Kinh nói: "Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất" (St 1,1). Trong bản tuyên xưng đức tin, Hội thánh công bố Thiên Chúa là Ðấng Sáng Tạo muôn vật hữu hình và vô hình, mọi loài thiêng liêng và vật chất, nghĩa là các thiên thần và thế giới hữu hình, và đặc biệt nhất là con người.
60. Hỏi: Các thiên thần là ai?
Thưa: Các thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng, không có thân xác, vô hình và bất tử; đó là những hữu thể có ngôi vị, có lý trí và ý chí. Họ không ngừng chiêm ngắm Thiên Chúa diện đối diện và tôn vinh Thiên Chúa; các ngài phục vụ Thiên Chúa và là những sứ giả của Ngài để thực hiện sứ vụ cứu độ loài người…
61. Hỏi: Các thiên thần hiện diện trong đời sống của Hội thánh như thế nào?
Thưa: Hội thánh liên kết với các thiên thần để tôn thờ Thiên Chúa; Hội thánh kêu cầu sự trợ giúp của các ngài và trong phụng vụ, Hội thánh kính nhớ một số vị trong các ngài.

Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2018

CHUYỆN MỘT NGÀY VÀ CHUYỆN MỘT ĐỜI


I. Chuyện tình yêu
Trong mỗi câu chuyện tình yêu thông thường, một người nam bị thu hút bởi một người nữ khởi đi từ cái nhìn cuốn hút hướng về nàng. Rồi anh tìm cách bắt chuyện với nàng khi có cơ hội thuận tiện. Anh sẽ gọi điện hay liên lạc với nàng bằng những cách thế nào đó. Anh sẽ thăm cô ấy tại nhà, ở trường, hay ở sở làm. Anh sẽ làm mọi thứ để chinh phục tình cảm của nàng. Nếu người nữ ấy cũng bị thu hút bởi người đàn ông kia, thì nàng sẽ khiến anh cảm thấy được tiếp đón bước vào cuộc đời của mình. Khi ấy anh và cô nàng sẽ thường hẹn hò đi với nhau đến một nơi ưa thích nào đó. Sau một thời gian tán tỉnh, và tìm hiểu nhau, họ sẽ cảm thấy sẵn sàng kết hôn với nhau hoặc không thực sự là người dành cho nhau. Họ sẽ nói chia tay hoặc tiếp tục chỉ là bạn bè nếu như họ thấy không thích hợp làm bạn đời của nhau. Nhưng nếu người đàn ông cầu hôn và được người nữ chấp nhận, thì họ sẽ chuẩn bị kế hoạch từng bước cho lễ cưới.
Khi quyết định kết hôn đôi bạn phải suy nghĩ mình đã thực sự sẵn sàng để chung sống với nhau suốt đời chưa? Sẵn sàng về điều kiện sức khỏe thể lý, tâm lý, xã hội, điều kiện tài chánh, điều kiện về tình cảm, tâm linh. Hai anh chị phải tự trả lời một số câu hỏi:
1. Anh Chị đã quen nhau và hẹn hò thường xuyên bao lâu?
2. Anh Chị hướng tới mục đích gì trong mối quan hệ này?
3. Anh/Chị quan tâm đến lợi ích của người kia như thế nào?
4. Anh/Chị thẩm định mức độ dấn thân của mình trong quan hệ này như thế nào?
5. Anh/Chị có dịp nào tốt hơn để sống hòa hợp với nhau không?
6. Anh/Chị có hiểu mối quan hệ này đòi hỏi ở mình điều gì không?
7. Anh/Chị thấy có được Chúa kêu gọi sống đời hôn nhân không (ơn gọi hôn nhân)?
8. Người bạn đời tương lai của Anh/Chị có tự do và sẵn sàng để chung sống ơn gọi này với Anh/Chị không?
9. Anh/Chị sẵn sàng để kết hôn như thế nào? (chung thủy và suốt đời)
10. Anh/Chị sẽ làm gì sau khi kết hôn? (Trăng mật chỉ là khúc dạo đầu cho bản nhạc ơn gọi suốt đời tìm kiếm một tình yêu hoàn hảo).
Đối với một đôi bạn kitô hữu đính hôn, họ vốn biết và hiểu hôn nhân là thiêng thánh thì họ sẽ muốn đám cưới của họ được cử hành trang trọng trong nhà thờ bởi một linh mục. Ngày đám cưới đánh dấu thời gian đính hôn cùng những hẹn hò, tán tỉnh, và tìm hiểu nhau chấm dứt, mộng ước chung của hôm qua nay đã thành tựu. Những người thân trong gia đình và bạn bè chúc mừng đôi tân hôn hạnh phúc. Sau đám cưới, đôi tân hôn sống tuần trăng mật. Một số người sẽ nghĩ chuyện tình của đôi bạn chấm dứt, từ đây bắt đầu một chuyện khác: câu chuyện hôn nhân. Nhưng có phải lễ cưới là kết thúc không hay chỉ là bắt đầu? Chúng ta vẫn thỉnh thoảng nghe người xưa nói “đám cưới là chuyện một ngày, hôn nhân là chuyện một đời”; “vợ chồng là chuyện trăm năm”.
Qua nghi lễ kết hôn, hai người nhận lãnh quyền và nghĩa vụ đánh dấu khởi đầu cuộc sống gia đình. Họ trở thành là vợ, là chồng của nhau. Rồi vợ mang thai sinh con trở thành mẹ, đồng thời chồng trở thành bố. Cả hai rồi sẽ thành ông thành bà khi con cái họ lớn khôn lập gia đình và có con. Họ cùng nhau đối diện với những khó khăn của cuộc sống và tìm cách vượt qua các trở ngại dọc dài thời gian. Lễ cưới xem ra đã kết thúc và nhường chỗ cho những khởi đầu mới sống yêu thương cho đến mãn đời. Đôi bạn cần có dự phóng chung cho một cuộc sống hôn nhân-gia đình vì từ nay họ không còn là người độc thân nữa. Họ phải chọn nơi chốn cho tổ ấm, cùng quyết định có bao nhiêu con, đồng thời xem xét ngân khoản thu nhập để lo liệu xây dựng, chăm sóc gia đình.
Trong dự phóng đó, đôi bạn cũng cần chú ý đến xây dựng mối quan hệ hôn nhân – gia đình vốn có nhiều khó khăn trong chính các thực tại thường ngày xuất hiện ngay từ buổi ban đầu.
II. Hôn nhân biến chuyển trong những cái thường ngày
1. Hôn nhân biến chuyển khi chúng ta nhận ra chương trình của Chúa trong những thời khắc thường nhật
“Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,7-8).
Đôi bạn kết hôn vì tình yêu, hay ít ra cũng vì hy vọng vào tình yêu, nhưng lại cảm thấy khó khăn thực hiện việc yêu thương hay không cảm thấy được yêu thương, nhất là trong những lúc gặp khó khăn. Khi ấy, họ không nên cứ chăm chắm vào cuộc hôn nhân của mình, nhưng nên nhìn sâu vào quan hệ của mình với Chúa. Nếu cuộc hôn nhân của bạn có vấn đề tức là quan hệ của bạn với Chúa không ổn. Thiên Chúa vẫn ở đó luôn gần gũi chăm sóc bạn, hãy để Ngài hiện diện trong bạn và trong gia đình. Nếu ta tin Thiên Chúa là tình yêu, thì Ngài phải là giải đáp cho những vấn đề của ta. Thật ra, Ngài phải là phần quan trọng nhất, điều lớn nhất ở giữa mọi sự, mọi chi tiết của cuộc sống hằng ngày.
Trong hôn nhân của đôi bạn, yêu nhiều hơn có nghĩa là có Chúa nhiều hơn.
2. Hôn nhân biến đổi khi ta sẵn sàng yêu thương bằng những việc làm cụ thể giống như Chúa Kitô, nhất là lúc gặp thử thách
“Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4, 9-10).
Tình yêu không cốt ở cảm xúc yêu. Tình yêu cốt yếu không là cảm tình nhưng, như Thánh Kinh dạy, là một con người, một ngôi vị Thần-Nhân, Giêsu Kitô đang sống giữa chúng ta. Khi bạn cần giúp đỡ để yêu thương người bạn đời của mình, bạn đừng chờ mình cảm thấy yêu thương hoặc mong đợi có lại những giờ phút lãng mạn vốn đã qua rồi nay sẽ lại đến, mà hãy nhìn vào Chúa Giêsu và học với Người. Vì Yêu thương, Người hành động. Người nói và làm một cách độc đáo, theo những cách thức khiến tình yêu xuất hiện hữu hình giữa chúng ta. Tin tưởng vào Người và học hỏi với Người, chúng ta cũng có thể hành động yêu thương như thế. Bạn hãy tin trước hết: tin rằng Chúa Giêsu sẽ giúp bạn biết yêu thương đúng cách. Nhưng tin chỉ mới là khúc nhạc dạo đầu, đức tin ấy hoàn tất khi bạn hành động bởi tin (x. Gc 2,22). Tình yêu không hệ tại ở cảm xúc, tình cảm, nó chỉ có trong Chúa Giêsu và xuất hiện hữu hình trong các việc nhỏ nhặt thường ngày trong hôn nhân của bạn.
3. Hôn nhân biến đổi khi chúng ta sẵn sàng yêu thương bền bỉ không vì người bạn đời của mình thay đổi mà vì ta đang tiến triển trong mối quan hệ với Chúa
“Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo” (1Ga 4,11-12).
Khi yêu thương nhau bạn sẽ thấy ít là hai phép lạ. Một là Thiên Chúa ở trong các bạn. Hai là Thiên Chúa trở nên rất hữu hình. Cái không thấy được trở nên thấy được, đó là phép lạ. Trong hôn nhân, có khi bạn nhận thấy không thể làm cho vợ hay chồng mình thay đổi.
Nếu bạn cứ loay hoay muốn làm cho nàng/chàng thay đổi bạn tất sẽ thất vọng vì đã cố làm điều không thể. Chúa sẽ ban cho bạn điều còn tốt hơn là muốn làm thay đổi người bạn đời. Bạn hãy để cho Chúa sống trong bạn để tình yêu của Người trở nên hữu hình trong thế giới, một thế giới đang vỡ tan từng mảng. Có thể vợ/chồng bạn bắt đầu có thay đổi một khi bạn ngưng ra sức thay đổi nàng/chàng và thay vào đó bạn tập chú vào cuộc sống tương quan với Chúa. Hoặc cũng có thể không. Nhưng hôn nhân của bạn sẽ biến chuyển tốt hơn khi có chọn lựa khác trong ánh sáng quan hệ gắn bó với Chúa, một quan hệ lớn lao hơn hôn nhân của bạn. Người bạn đời khi ấy sẽ nhận ra bạn đang thay đổi và cũng sẽ rất có thể thay đổi theo. Thay vì tìm xảo thuật, bạn nên sẵn sàng bước lên con đường dài đi cả đời nhưng được ta sống mỗi lúc một ngày, cái ngày hôm nay. 
Câu hỏi để suy tư và thảo luận: 
1. Đâu là những giờ phút thời khắc thường nhật trong hôn nhân của anh chị? Những việc gì nghiêm trọng, những xung khắc vợ chồng nào, hay những thất vọng nào về người bạn đời của anh chị cứ xảy ra ngày này đến ngày khác? Có những suy nghĩ, cảm nhận chung nào giữa các vợ chồng như thế không?
2. Bạn có cầu xin Chúa giúp đỡ những lúc khó khăn, căng thẳng? Bạn thấy có biến đổi nào hay không? Bạn có chiến đấu với cảm giác bị bỏ rơi, tức giận, thất vọng không?
3. Hãy nghĩ đến một vài thời điểm thường nhật trong hôn nhân của bạn. Bạn làm sao để chỉ cần thay đổi chỉ một chút ý nghĩ, thái độ, lời nói, hoặc việc làm nhỏ để cho tình yêu Chúa trở thành hữu hình? Những khoảnh khắc thường nhật ấy có thể nên khác biệt thế nào nếu bạn nhận ra trong lúc ấy Chúa đang yêu thương và nâng đỡ bạn khi bạn làm cho tình yêu Ngài trở nên thấy được?

Văn phòng HĐGMVN

Bài 3: KHI HÔN NHÂN THẤT BẠI

Suy tư Năm Mục vụ Gia đình 2018: Đồng hành với các gia đình trẻ
Bài 3: KHI HÔN NHÂN THẤT BẠI
 Hầu hết các đôi vợ chồng mới cưới đều tin tưởng hôn nhân của họ sẽ kéo dài mãi mãi, nhưng thực tế vẫn có nhiều đôi tan vỡ sau khi kết hôn sớm hay muộn ít nhiều. Hôn nhân của họ như thế có nghĩa là thất bại. Điều đó có nghĩa không gì khác hơn là vợ chồng không thực hiện được mục đích yêu thương nhau cho đến chết. Đó là bằng chứng của một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Nó cho thấy có điều gì không ổn đã xảy ra trong quan hệ vợ chồng. Một trong hai người hoặc cả hai đã không thể trao chuyển tình yêu thương mà họ đã từng hứa trước mặt Chúa và trước mặt nhau.

Hiện tượng ly hôn ngày nay nhiều đến nỗi đã tạo một phản âm bất an trên các cặp đính hôn, ảnh hưởng đến quyết định lập gia đình của họ. Ngày nay, ở nhiều nước xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng nam-nữ sống chung nhưng không là vợ chồng, các cặp đồng tính, nam-nữ, dấn thân sống chung như vợ chồng mà không kết hôn dân sự hay tôn giáo (gọi là sống thử). Các hình thức kết hợp này tồn tại như một tùy chọn bên cạnh sự kết hôn truyền thống. Mặc dù có nhiều lý do khác nhau cho việc chọn lựa dấn thân sống chung như thế, nhưng có một điều chắc chắn, đó là với chọn lựa đó người ta sẽ dễ dàng từ bỏ mối quan hệ hơn một khi mọi sự trở nên bất ổn giữa hai người. Dẫu thế, đối với người Kitô hữu chân tín mọi kiểu sống chung không hôn phối như thế đều không là và không thể là một hôn nhân theo nghĩa giao ước đầy đủ. Đằng sau cuộc sống chung đó, dù kiểu nào, cũng luôn ẩn tàng một tiền đề, là có thể có một ngày hai người phân ly đôi ngả. Người nam cũng như người nữ có xu hướng ngại ngần dâng hiến trọn vẹn tất cả cho nhau vì e ngại có thể có một ngày, xa hay gần, họ chia tay. Hôn nhân theo Kitô giáo thì không như thế. Nếu đó không phải là một cuộc phối hợp thiêng liêng có ý hướng mãi mãi trọn đời thì không phải là hôn nhân. Nếu kết ước không có tính bất khả phân ly, thì hôn phối không được công nhận là bí tích của Đức Giêsu Kitô. Vợ chồng mà không thể sống chung với nhau, yêu thương nhau cho đến mãn đời thì hôn nhân ấy thất bại.
Khi nào hôn nhân thất bại?
Hôn nhân bắt đầu thất bại không chỉ khi hai người phối ngẫu quyết định chấm dứt quan hệ hôn nhân, mà trước đó đã có dấu hiệu sa sút và suy sụp. Có thể có nhiều vấn đề khác nhau, như thiếu chung thủy, những “sự việc” trước khi kết hôn chưa được giải quyết, cha mẹ hay người thân thuộc của “bên kia” xâm nhập sâu vào sự riêng tư của vợ chồng, bạo hành thể lý, vợ chồng không hợp nhau, không có khả năng chu cấp cho cuộc sống gia đình và vân vân, dẫn đến hôn nhân thất bại. Có thể vì quá mê mải và lo lắng về tài chánh, việc làm, sức khỏe, con cái, vợ chồng thành ra bận rộn, rồi căng thẳng. Họ tưởng nghĩ mình đang lo cho gia đình nên mê mải nhiều sự đến nỗi phương hại đến mối quan hệ hôn nhân, hạnh phúc gia đình. Họ không ý thức từng ngày mình đã đang dần đánh mất niềm say mê nhau như những năm tháng đầu lưu luyến. Những vấn đề ấy trước kia được xem nhẹ nay họ nhận ra đó là những dị biệt nghiêm trọng. Người này, hoặc cả hai, đã không còn bộc lộ tình cảm yêu quý đối với người kia như trước đây vẫn thường làm trong khi trao đổi tranh luận. Nhiều trường hợp trong đó vợ chồng chỉ còn vẫn tiếp tục sống chung nhưng quan hệ đã lạnh nhạt, chỉ biết giữ nghĩa vụ với nhau mà thôi.

Hôn nhân thất bại có thể được nhận thấy trước, khi tình cảm bắt dầu tắt dần do cách cư xử của người bạn đời thiếu yêu thương, thiếu ân cần, khi chồng hay vợ xem ra bận tâm nhiều đến niềm vui thú riêng mà không quan tâm đến hạnh phúc chung. Những dấu hiệu cho thấy một người chồng và vợ anh không yêu thương nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi đau yếu cũng như lúc mạnh khỏe.
Tại sao họ lại như vậy
Trong khi sống chung vợ chồng bắt đầu nhận ra những thói quen của nhau trái ý, gây bực bội. Dần dà khi họ không còn có thể dung thứ cho nhau nữa lại sinh ra cãi cọ, trách cứ, chỉ trích nhau. Có khi căng thẳng đến nỗi không còn giữ được bình tĩnh. Họ bộc lộ thiếu sự yêu thương quan tâm lẫn nhau. Người này xem thường công việc của người kia. Rồi ghen tuông, sỉ nhục, làm tổn thương nhau. Thường xuyên xung đột, mâu thuẫn, tranh chấp vợ chồng, khiến họ cảm thấy không hạnh phúc. Nếu như họ đủ chín chắn có thể nhận ra được lầm lỗi của mình, vợ chồng có thể nói chuyện và thỏa thuận với nhau một giải pháp tương đối cho vấn đề. Đôi bạn có thể xây dựng mối quan hệ hôn nhân gia đình tốt hơn dần theo năm tháng nếu biết giải quyết các vấn đề xung khắc trong yêu thương.
Tại sao họ không thể
Hạnh phúc hay không là do thái độ hành vi của ta. Không phải những gì xảy đến trong cuộc sống làm ta hạnh phúc hay bất hạnh, nhưng là chính cách mà ta đón nhận và ứng xử trước những vấn đề đang xảy ra.
Anh D. và chị. P. lấy nhau được gần bốn năm. Họ đã có 2 đứa con nay chị lại mang thai. Anh D. nói với X. một người bạn của anh rằng anh rất không may lần này vì có một đứa con nữa là thêm một miệng ăn. X. nhắc anh rằng có một đứa con là phúc lành bởi Thiên Chúa anh chị nên vui mừng hân hoan ca ngợi Chúa. Nhưng anh D. trả lời là anh không còn có thể để dành tiết kiệm để sắm xe và nhà cửa nữa rồi.
Dĩ nhiên, hạnh phúc hay không hạnh phúc còn do hoàn cảnh khách quan nữa. Tuy nhiên, thái độ của ta trước hoàn cảnh đó rất quan trọng. Ta có thể chọn hoặc để cho mình bất hạnh với hoàn cảnh ấy đến mức tự hủy diệt chính mình, gia đình mình trong trình tự cuộc sống, hoặc chỉ buồn phiền một thời gian ngắn thôi rồi lại bước đi tiếp. Cái ta thấy và cách ta nhìn nó thường xen lẫn, kết hợp với nhau.
Vợ chồng không biết gì về việc mình không hạnh phúc
Hôn nhân không hạnh phúc thường là do duy trì một quan hệ buồn thảm hay xấu tệ quá lâu. Đó có thể là hệ quả của một sự bạo hành về thể lý hay tâm lý lâu ngày lặp đi lặp lại, hay những thói xấu của một người hay của cả hai người, sự không chung thủy, sa đọa, thường xuyên bất ổn tâm lí, v.v…
Cũng có thể lý do không hạnh phúc là bởi thường xuyên bị xì-trét (stress). Xì-trét tước mất nhiều năng lượng của đôi bạn hơn những gì đòi hỏi bình thường. Hai vợ chồng phải chịu đựng sự căng thẳng quá mức giới hạn. Để rồi họ cảm thấy buồn sầu khôn dò, tưởng chừng rơi vào trầm cảm. Họ không đủ sức lực để xây dựng hôn nhân tốt đẹp nữa.
Hôn nhân không hạnh phúc cũng có thể gây ra nhiều hệ lụy.
P. và L. kết hôn với nhau được ít là ba mươi lăm năm. Họ có hai con, T. và K., và được xem là một gia đình lý tưởng trong khu xóm. Họ có hầu như mọi thứ mà các cặp vợ chồng khác mơ ước. Rồi một ngày kia, L. khám phá ra gần đây P. đã bất trung với mình. Cô ta hỏi anh tại sao lại như vậy. P. trả lời vì đôi khi anh chợt cảm thấy thật cô đơn và tìm lời giải đáp trong vô vọng. Vì thế, để vượt qua nỗi cô đơn này, anh đi ra ngoài qua đêm “ăn bánh trả tiền” với một cô gái mại dâm.
“Chính Chúa đã dựng nên ông Ađam, dựng nên cho ông một người trợ thủ và nâng đỡ là bà Evà, vợ ông. Và dòng dõi loài người đã sinh ra từ hai ông bà. Chính Chúa đã nói: ‘Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một người trợ thủ giống như nó’” (Tb 8,6).
Đôi bạn phải nhớ rằng hai người đến với nhau là bởi ân sủng Chúa, họ không chỉ là phương thế phục vụ cho hạnh phúc của nhau, nhưng cả hai là chính hạnh phúc cốt yếu dành cho nhau. Thiếu người này, người kia không thể đương đầu với nỗi cô đơn bất hạnh. Họ không coi nhau như đồ vật nhưng như hai chủ thể nhân vị:
“Giờ đây, Lạy Chúa, không phải vì lòng dục mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành” (Tb 8,7).
Câu hỏi chia sẻ hay để thảo luận:
1. Những lúc nào, hoàn cảnh nào bạn cảm thấy buồn khổ, cô đơn, hay chán chường?
2. Bạn phản ứng, cư xử như thế nào với vợ hay chồng bạn khi bạn cảm thấy mệt mỏi, kiệt sức?
3. Bạn có cảm thấy vợ/chồng bạn áp đặt ý muốn của người ấy trên mình không? Khi ấy bạn ứng xử, đối phó như thế nào?

Văn phòng HĐGMVN