Hiển thị các bài đăng có nhãn SƯU TẦM. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SƯU TẦM. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

Mười Ðiều Răn dành cho người lái xe theo tinh thần Kitô.

Mười Ðiều Răn dành cho người lái xe theo tinh thần Kitô.

Bạn hãy bắt đầu cuộc hành trình với lời cầu nguyện, và Bạn hãy kết thúc chuyến đi với lời cầu nguyện. Ðó là "điều răn thứ nhất và thứ mười" trong số 10 điều răn dành cho những người lái xe, do Hiệp Hội Quốc Tế về Sự An Toàn Trên các Ngả Ðường, có trụ sở tại Luân Ðôn, Anh Quốc, phổ biến mới đây. 

Hiệp hội nầy đã được thành lập cách đây 60 năm, và hiện có những thành viên tại các nước như Hoa Kỳ, Canada, Úc Châu, Tân Tây Lan và một số quốc gia bên Phi Châu, Trinité-Tobago, Bahamas, với tổng số thành viên là 16,000. Hiệp Hội quốc tế của những người lái xe nầy, nhằm phổ biến những ấn phẩm nói về những dịch vụ lo cho sự an toàn trên các ngả đường. Hiệp Hội cũng nhằm đưa ra những lời khuyên thiết thực, nhằm giúp cho các thành viên, tức những người lái xe, biết cách sống đức tin của mình khi lái xe. Sau đây là 10 "điều răn" cho những người lái xe theo tinh thần Ðức Kitô:

1. Hãy bắt đầu cuộc hành trình với lời cầu nguyện.

2. Nếu bạn đi trễ, thì sẽ đến trễ.

3. Rượu không phải để cho người lái xe dùng.

4. Nếu người lái xe kia nhường cho bạn nhập vào đường xe, thì bạn hãy ra dấu cám ơn người đó.

5. Nếu bạn lỡ cản trở lưu thông của xe khác, thì hãy ra dấu xin lỗi.

6. Bạn hãy nhường đường cho những tài xế vội vả, lấn lấy đường xe, để họ vượt qua bạn.

7. Bạn hãy lái xe làm sao, để khi gặp một xe cảnh sát bất ngờ xuất hiện, thì bạn vẩn bình tỉnh.

8. Bạn hãy nhường khoảng cách đầy đủ cho những xe taxi và những xe có kéo theo xe phụ.

9. Bạn đừng bao giờ gia tăng tốc độ, mà ngược lại, hãy giãm tốc độ khi cần, khi người lái xe kia muốn lấn vào đường xe của bạn.

10. Bạn hãy kết thúc cuộc lái xe với lời cầu nguyện.

Ðó là những điều luật giúp những người lái xe giữ an toàn cho chính mình và cho kẻ khác. Nguyên tắc chung và căn bản nhất là biết nhường nhịn, và có thái độ lễ phép cả khi lái xe. Ngoài bản 10 điều răn trên, thì còn có những bản văn giúp cho người lái xe cầu nguyện trước và sau khi lái xe. Những bản văn giúp cầu nguyện nầy nhắc cho những người lái xe về những nguy hiễm, có hại cho sự an toàn trên đường, mà họ cần phải loại bỏ ra khỏi thái độ sống khi lái xe. Ðó là những nguy hiểm sau đây: lối lái xe muốn thống trị vượt hơn kẻ khác, sự ham thích tốc độ nhanh, sự nô lệ cho thời giờ, và việc uống rượu. Nếu ra đi trễ, thì phải chấp nhận đến trễ. Do đó, đừng hấp tấp vội vàng. Ðừng lấn đường xe của kẻ khác. Cần sống đức tin, cả trong việc lái xe. Ðó là điều mà Hiệp Hội Quốc Tế những người lái xe nhắm đến, khi cho công bố 10 điều răn cho người lái xe theo tinh thần Ðức Kitô.







ĐỪNG QUÊN MẢNG TỐT NƠI MỖI NGƯỜI

Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn! (Mc 8,31)

Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?

Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh hiển của Ngài, lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói sao! Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ như thế nào đây?

Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Ngài đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).

  • Củng cố tâm hồn ba môn đệ

Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Ngài đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su.” (Mc 9, 2-4)

 Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”

“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.” (Mc 9,5-7)

Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Ngài trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gio-an vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn. 

  • Hai mảng sáng - tối của đời người

Đời người thường có hai mảng sáng - tối đan xen nhau: có lúc thịnh thì cũng có lúc suy; có khi thành công cũng có khi thất bại, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.

Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mảng sáng, mảng tối. Mảng sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao; mảng tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm... Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mảng đen tối, u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính yếu đuối của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới, đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mảng sáng của Ngài trên núi cao, không thấy cuộc phục sinh vinh hiển của Ngài, thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng và sẽ đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh? Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?

Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy mảng sáng của Ngài trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của mình, tỏ cho họ thấy Ngài là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi suy sụp khi chứng kiến cuộc khổ nạn đau thương sắp đến của Ngài. 

  • Đừng quên mảng tốt

Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền xinh đẹp của nó, người ta sẽ thất vọng về nó.

Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải phản ánh vinh dự của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.

Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì người ta sẽ xem thường nó.

Đối với người chung quanh cũng thế. Cuộc đời mỗi người đều có mảng sáng và mảng tối. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mảng đen tối của một con người, mà quên đi mảng sáng tươi tốt đẹp trong đời họ; nếu chỉ nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ thất vọng về người đó.

Lạy Chúa Giê-su,

Nhờ chứng kiến cuộc hiển dung vinh hiển của Chúa trên núi cao, các môn đệ cảm thấy vững tâm hơn khi đối diện với cuộc khổ nạn đau thương của Chúa;

Nhờ nhìn ngắm vẻ đẹp của những đoá hoa hồng, người ta mới dễ dàng chấp nhận những gai nhọn đáng phàn nàn của nó;

Xin cho chúng con, trong tương quan với tha nhân, cũng biết nhìn vào mảng sáng, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những điều đen tối xấu xa nơi họ.

Nhờ đó, chúng con sẽ thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của chúng con với mọi người sẽ được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng con với nhau sẽ hạnh phúc hơn.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Thứ Sáu, 23 tháng 2, 2018

ĐÔI MẮT BIẾT NÓI, ĐÔI MẮT YÊU THƯƠNG

ĐÔI MẮT BIẾT NÓI, ĐÔI MẮT YÊU THƯƠNG

  • Những cơ hội lớn để ta giúp đỡ người khác hiếm khi xuất hiện, nhưng những cơ hội nhỏ để ta làm điều đó ở quanh ta mỗi ngày. - Sally Koch

Đó là một buổi tối lạnh lẽo, rét buốt ở miền bắc Virginia cách đây đã nhiều năm. Bộ râu của ông lão cứng ngắc trong cái lạnh của mùa đông khi ông đợi có ai đó giúp ông sang sông. Sự chờ đợi dường như vô tận. Cơ thể ông tê cóng và cứng đờ bởi những cơn gió bấc giá lạnh.

Bỗng ông nghe thấy tiếng ngựa phi nhịp nhàng đang đến gần men theo con đường đầy sương gió. Ông lo lắng nhìn khi một nhóm chàng trai phi ngựa rẽ qua khúc quanh, ông đã để cho người đầu tiên chạy qua mà chẳng hề gọi. Sau đấy, một người khác đi qua, rồi một người nữa. Lúc này, tuyết đã rơi, trông ông lão giống như một bức tượng bằng tuyết, ông đã thấy người kỵ sĩ cuối cùng. Khi người này đến gần, ông già ra dấu với người kỵ sĩ rồi nói:

- Chào cậu, cậu có phiền đưa già này sang bên kia sông được không? Chẳng có lối nào để đi bộ được cả.

Người kỵ sĩ ngồi trên ngựa đáp:

- Được chứ, thưa bác. Bác nhảy lên đây nào.

Thấy ông lão không thể nhấc nổi cơ thể đã gần như đông cứng khỏi mặt đất, chàng trai nhảy xuống và giúp ông leo lên ngựa. Chàng kỵ sĩ không chỉ đưa ông già sang sông mà còn mang ông đến nơi ông định đến cách đó vài dặm nữa.

Khi đến gần một mái nhà tranh nhỏ xíu ấm cúng, chàng kỵ sĩ tò mò hỏi:

- Thưa bác, cháu thấy bác đã để nhiều người cưỡi ngựa khác chạy qua mà không nhờ lấy một ai để giúp qua sông. Khi cháu đến thì bác nhờ cháu ngay lập tức. Cháu thắc mắc không hiểu tại sao, vào một buổi tối mùa đông lạnh giá như thế này, bác lại đợi và nhờ người cuối cùng. Nếu cháu từ chối không giúp bác thì sao?

Ông lão từ từ leo xuống ngựa, nhìn thẳng vào mắt chàng trai, đáp:

- Bác đã ngồi đấy một lúc rồi. Bác nghĩ mình biết cách nhìn người. Khi bác nhìn vào mắt những chàng trai kia bác nhận ra ngay là họ chẳng quan tâm gì đến tình cảnh của bác cả. Nhờ họ giúp cũng không ích gì. Nhưng khi nhìn vào mắt cháu, lòng tốt và sự thương người hiện lên rất rõ. Bác biết rằng thái độ dịu dàng của cháu sẽ mở ra cho bác cơ hội được giúp đỡ lúc bác cần.

Những lời ấm lòng đó của ông lão làm người kỵ sĩ hết sức cảm động.

- Cháu hết sức cám ơn những gì bác vừa nói. - Anh nói với ông lão - Có lẽ sẽ chẳng bao giờ cháu quá bận rộn với chuyện riêng của mình mà không đáp lại những gì người khác cần bằng lòng nhiệt thành cả.


LỜI NÓI NHƯ BÔNG GÒN

Ngày xưa ở 1 vùng thôn xóm kia, có 1 người thiếu phụ trẻ khá xinh đẹp. Chồng cô đi lính xa nhà, người thiếu phụ ấy phải ở nhà với mẹ chồng... Cô chăm sóc mẹ chồng và mọi chuyện trong nhà rất chu đáo. Mọi người trong vùng ai cũng thầm khen cô là người nết na... Trong vùng không ít đàn ông yêu cô vì cô còn trẻ và xinh đẹp... Trong số đó có tên yêu cô đến điên cuồng...

Nhiều lần tán tỉnh cô nhưng đều bị cô từ chối... Hắn từ yêu hóa ra căm hận. Hắn đi rêu rao khắp làng rằng cô đã không giữ tròn trinh tiết của người vợ, là một người phụ nữ thiếu đức hạnh... Tin đồn cứ truyền khắn nơi trong vùng, mọi người nhìn cô với một ánh mắt khác đi. Rồi tin đồn cũng tới tai bà mẹ chồng của cô. Bà nghi ngờ và đối xử khác với cô... Không thể nào chịu nổi những lời dèm pha của mọi người, lại bị người thân xa cách, cô buồn lắm... một lần quá đỗi tuyệt vọng cô đã tìm đến cái chết.

Cái chết của cô làm cho tên khốn kiếp đã tung những tin đồn không hay về cô vô cùng ân hận và hối lỗi... Hắn cảm thấy bị lương tâm dằn vặt... hắn tìm đến cụ già nhất làng và là người hiểu biết nhất để kể hết mọi chuyện và xin ông một lời khuyên. Cụ già nghe xong mọi chuyện không nói gì dẫn hắn lên trên ngọn đồi của làng. Cụ xé chiếc gối và thả xuống. Những bông gòn theo gió bay đi mọi hướng. Cụ già bảo hắn đi nhặt lại những bông gòn đó rồi dồn lại vào gối. Hắn ngạc nhiên lắm, vì làm sao có thể nhặt được đấy đủ .

Cụ già nhìn hắn rồi nghiêm nghị nói: - Những lời do con người nói ra cũng như những bông gòn kia vậy, không thể nào lấy lại được. Khi lời đã nói ra thì làm sao có thể rút lại được.

Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018

Đức Mẹ Cột Trụ ở Zaragoza, Tây Ban Nha

Đức Mẹ Maria nổi tiếng với những cuộc hiện ra kèm theo nhiều phép lạ linh thiêng ở khắp nơi trên thế giới. Kinh Thánh nói không nhiều về Mẹ, nhưng người Công Giáo lại rất thân thuộc với Mẹ thông qua các cuộc hiện ra. Thế nhưng bạn có biết cuộc hiện ra đầu tiên của Đức Mẹ xảy ra vào lúc nào không? Có lẽ thông tin này sẽ làm bạn rất bất ngờ.
Đền thờ lạ lùng Đức Mẹ Cột Trụ ở Zaragoza, Tây Ban Nha


Sự tích Đức Mẹ Cột Trụ hiện ra

Theo Thánh truyền, sau khi Chúa Giêsu về trời vào khoảng năm 30 SCN, Đức Trinh Nữ Maria dọn về sống cùng Thánh Gioan Tông Đồ ở Giêrusalem (cho đến khoảng năm 46 SCN thì hồn xác lên trời). Khi đó, Thánh Giacôbê Tiền Tông Đồ vượt Địa Trung Hải đi về phía tây, từ Do Thái đến loan báo Tin Mừng trên phần đất ngày nay thuộc nước Tây Ban Nha.

Truyền thống kể rằng: Sau nhiều ngày tháng lao nhọc mà việc giảng đạo không có kết quả bao nhiêu, Thánh Giacôbê đâm nản lòng. Ngài cầu xin Thiên Chúa ban ơn soi sáng và trợ giúp. Để đáp lại lời tôi tớ cầu xin, Thiên Chúa cho xảy ra một sự kiện mà chính Thánh Giacôbê cũng không ngờ.

Vào đêm 2/1/40 SCN, khi Thánh Giacôbê đang cầu nguyện cùng một số ít môn đệ bên bờ sông Ebro tại Zaragoza, Tây Ban Nha, thì Đức Mẹ Maria, khi ấy vẫn còn sống ở Giêrusalem, đã hiện ra với ngài trên một đám mây. Mẹ đứng trên một cây trụ dài được các thiên thần mang vác. Nhiều thiên thần khác vây quanh và hát khen "Kính mừng Maria". Sau đó Đức Mẹ trao cho Thánh Giacôbê một bức tượng Mẹ ẵm Chúa Hài Nhi làm bằng gỗ cao 39cm đứng trên cây cột làm bằng ngọc thạch anh cao 1m8, và truyền cho Thánh nhân xây một đền thờ ở tại chỗ Mẹ đã hiện ra, với lời bảo đảm rằng: "Con cứ vững lòng, rồi người ta sẽ nghe lời con rao giảng mà tin theo, và đức tin của họ sẽ vững như cột trụ mà Mẹ đang đứng trên đây ." Loại đá quý làm chiếc cột đó không tìm được ở đâu trong nước Tây Ban Nha cả. Thánh Giacôbê không dám trì hoãn mệnh lệnh, liền cùng các môn đệ dựng một nhà nguyện tại Zaragoza, cạnh bờ sông Ebro, tại nơi ngài đã cầu nguyện, về sau được xây thành một Đền thờ lớn. Sau đó không lâu, Thánh Giacôbê quay về Giêrusalem và bị vua Hêrôđê chặt đầu năm 44, trở thành vị Tông Đồ đầu tiên chịu tử đạo.

Đây là cuộc hiện ra đầu tiên của Đức Maria được ghi nhận, và là cuộc hiện ra duy nhất của Mẹ trước khi Mẹ về trời.

Giáo Hội chuẩn nhận

Lòng tin vào Đức Mẹ Cột Trụ được lan truyền rộng rãi và được giáo quyền nói chung chuẩn nhận. Ngày 23/9/1456, Đức Giáo Hoàng Calixtô III ra tông sắc ban ân xá 7 năm cho những ai đến hành hương kính viếng cột trụ Đức Mẹ Zaragoza. Đây là lần đầu tiên Đức Mẹ Cột Trụ được đề cập trong một văn kiện Toà Thánh. Năm 1640, Công đồng Zaragoza ấn định lễ kính Đức Mẹ Cột Trụ là vào 12/10 hàng năm.

Sau đó một thời gian, nổi lên tranh cãi về nguồn gốc kỳ diệu của Đền thờ Zaragoza và nhiều người thỉnh cầu Đức Giáo Hoàng Innôcentê XIII can thiệp để giải quyết dứt khoát. Thể theo thỉnh cầu, Đức Innôcentê cử 12 Hồng Y đi điều tra lại nguồn gốc của Đền thánh trên. Ngày 12/10/1723, nhằm lễ kính Đức Mẹ Cột Trụ, Đức Giáo Hoàng Innôcentê XIII chính thức xác nhận nguồn gốc của Đền thờ như được kể trên và phong cho Đền thờ Đức Mẹ Cột Trụ là nhà thờ đứng đầu trong nước Tây Ban Nha. Năm 1730, Đức Giáo Hoàng Clêmentê XII truyền cử hành lễ kính Đức Mẹ Cột Trụ 12/10 trên toàn đế quốc Tây Ban Nha. Ngày 20/05/1905, Thánh Giáo Hoàng Piô X đội triều thiên cho tượng Đức Mẹ Cột Trụ, chiếc triều thiên có giá trị 450.000 peseta (tương đương 2,6 triệu đôla ngày nay). Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố Đức Mẹ Cột Trụ là bổn mạng toàn thế giới nói tiếng Tây Ban Nha và tôn phong Đền thờ làm Vương Cung Thánh Đường. Thánh Gioan Phaolô II đã viếng thăm Đền thánh Đức Mẹ Cột Trụ vào ngày 06/11/1982.

Trong tác phẩm Thần Đô Huyền Nhiệm Thiên Chúa, một mặc khải tư vào thế kỷ 17 về cuộc đời Đức Mẹ Maria cho Đấng Đáng Kính nữ tu Maria Agreda, cuộc hiện ra của Đức Mẹ Cột Trụ cũng được đề cập và mô tả chi tiết đúng như trên. Tác phẩm này đã được Giáo Hội chuẩn nhận vào thời Chân phước Giáo Hoàng Innôcentê XI.


Mô tả tượng Đức Mẹ Cột Trụ

Chiếc cột trụ dưới chân tượng Đức Mẹ cao 1,8m làm bằng jasper (một loại thạch anh quý). Ngày nay chiếc cột được bọc trong một lớp đồng thiếc và một lớp bạc, rồi được quấn một lớp vải gọi là manto bên ngoài.

Tượng Đức Mẹ làm bằng gỗ cao 39cm, trên tay trái ẵm Chúa Giêsu Hài Nhi, trong bàn tay trái của Chúa có một chú chim bồ câu nhỏ. Bức tượng được tin là không hề bám bụi. Gỗ làm tượng vẫn chưa được xác định. Tượng Đức Mẹ cũng được bọc trong lớp vải manto như chiếc cột.

Năm 1434, Đền thánh Zaragoza từng bị hoả hoạn thiêu rụi, khiến nhiều người cho rằng chiếc cột và tượng Đức Mẹ nguyên thuỷ cũng đã bị cháy mất. Tuy nhiên, truyền thống chung vẫn tin tượng cột trụ Đức Mẹ ban cho Thánh Giacôbê khi xưa còn tồn tại đến nay và đã không bị lửa làm hại.

Trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha 1936-1939, có 3 quả bom đã được thả xuống trên Đền Đức Mẹ Cột Trụ, nhưng không quả nào phát nổ. Ngày nay, 2 quả trong số đó được treo trên tường Thánh đường như bằng chứng ơn che chở của Đức Mẹ. Vô số phép lạ hồn xác, âm thầm hay nhãn tiền đã xảy ra ở đền Đức Mẹ Cột Trụ, và rất nhiều vị Thánh đã từng cầu nguyện ở đền thờ này.

Lễ kính Đức Mẹ Cột Trụ là ngày 12/10 hàng năm.

Chủ Nhật, 18 tháng 2, 2018

HÃY SỐNG NHƯ MỘT BÔNG HOA !

HÃY SỐNG NHƯ MỘT BÔNG HOA !            




Mọi sự khởi đầu khi hạt giống được gieo trên đất. Dù muốn dù không, bạn cũng có mặt trên đời. Rồi như hạt giống ngày càng lún sâu, bám chặt đất như nền tảng, hấp thụ tinh hoa; con người cũng cắm sâu trong cội nguồn, trong một không gian và thời gian nhất định, tiếp thu văn hóa và truyền thống, lớn lên với tất cả những gì thân quen bao bọc, đất không là đất lạ, đời cũng không xa lạ với người.

Trong lòng đất hạt giống âm thầm mọc, từ tối tăm vươn ra ánh sáng, đẩy bao chướng ngại, bao gò bó chật hẹp để góp mặt với đời . Nó ngỡ ngàng khám phá ra thế giới chung quanh và bầu trời rộng lớn, thấy rõ tầm vóc bé nhỏ, yếu đuối và giới hạn của mình, nhưng vẫn tin tưởng vì có niềm hi vọng và sức sống bên trong, luôn luôn thôi thúc mình triển nở, cho tới ngày thành đạt khai hoa.

Cây trước lúc đơm hoa, còn chịu bao cắt tỉa đớn đau để nên hoàn thiện, nhận lãnh sự bổ sung của bao phân tro, nước tưới để vươn cao và đứng thẳng trong đời . Con người cũng vậy : nhờ giáo dục của gia đình, học đường và xã hội, cùng nỗ lực bản thân, bạn đã loại bỏ bao nết xấu, cắt tỉa bao cá tính gây phiền toái, chặt đi bao vướng bận thừa thãi, bao lo toan vụn vặt để sống thành toàn. Bạn cần cả những câu khen ngợi lẫn những lời phê bình chỉ trích đúng đắn để lớn lên, bạn cần gió lay để biết mình đang đứng vững và cố cắm sâu hơn trong đất sống, bạn cần ngày nắng để sống cứng cát và cũng cần đêm về để nghỉ ngơi lại sức. Bạn cần gia đình, bạn bè bên cạnh để nương tựa trong mưa gió cuộc đời . Vào một buổi sáng đẹp trời nào đó, bạn đã là một bông hoa.

Bông hoa sống rất tự nhiên, nó mở lòng đón nhận tất cả : sương mai, ánh nắng, gió xuân, mưa lũ, và cả đêm đen; không tham lam, không kiểu cách, không phàn nàn, không hãi sợ. Với tất cả vẻ đẹp duyên dáng, bông hoa biết mình hiện diện là hiện diện cho đời. Người ta dùng hoa làm ngôn ngữ trong niềm vui cũng như trong nỗi buồn , nói lên tâm hồn , ý nghĩ :
Hoa hồng biểu tượng cho tình yêu, hoa huệ tượng trưng cho sự khiết tịnh, hoa sim tím nhắc đến lòng chung thuỷ….Nếu bạn sống như một bông hoa, bạn thật có ý nghĩa đối với người khác, đem lại niềm vui, sự an ủi, nâng đỡ người khác. Bông hoa thấy mình giá trị vì đã làm cho đời có giá trị : dấu chỉ tình yêu, tình thân thiện, nét thẩm mỹ…. Bông hoa nào còn muốn gì hơn ?

Cùng tươi nở trong một khu vườn, mỗi bông hoa có một vẻ đẹp, một hương thơm, nên không so sánh mình với những bông hoa khác : hoa hồng không ganh tị với màu vàng rực rỡ của hoa cúc, hoa dạ lý không khoe mình ngát thơm hơn hương của hoa quỳnh. Chúng dễ chung sống với nhau vì chấp nhận đứng bên cạnh nhau, vì biết mình có thể bổ túc cho nhau để vườn hoa là vườn hoa muôn sắc. Vườn hoa càng lớn, càng nhiều loại hoa, thì như càng đẹp và càng nhiều khách muốn ngắm nhìn. Kìa những hội hoa xuân với muôn hồng nghìn tía, bạn muốn là bông hoa lẻ loi một mình hay thấy cần phải dấn thân trong ngày lễ hội chung ?

Bông hoa nở rộ thật vô tư, chẳng bao giờ kênh kiệu khất lần, hay hờn dỗi để mãi khép kín. Rồi khi đã tươi nở, hoa không quan tâm đến việc được nâng niu, nhìn ngắm hay không. Và nhỡ ra có bị bóp nát, hoa vẫn toả hương thơm trên tay người đã vò xé mình. Bông hoa như  không biết đến giận dữ, trả thù, cho dù có bị thiệt thòi cũng vẫn hành động theo hướng tích cực. Bạn cũng vậy, tôi không biết có bao nhiêu khinh thường đã làm bạn tủi hổ, bao nhiêu bất công mà bạn đã âm thầm gánh chịu, có bao nhiêu nước mắt bạn đã đổ ra trong đau khổ, có bao oan ức đắng cay mà bạn đã phải cắn chặt môi..Nhưng tôi có thể biết được sự hiện diện và tấm lòng quảng đại của bạn khi cảm được hương thơm . Dù sao, những vấp ngã đã làm bạn thêm vững bước, những mất mát làm bạn thêm quý những gì đang có, những đau buồn làm bạn thêm trân trọng giữ gìn niềm vui dù nhỏ bé nhất, những thử thách rèn bạn thêm kiên nghị, những xúc phạm dạy bạn tập tha thứ, những thù ghét mời gọi bạn sống yêu thương. Chẳng có gì làm khó được bạn giữa một cuộc đời đang cần những con người chân chính như bạn, những bông hoa dám sống để toả hương thơm cho người .

Đời người như hoa nở, kiếp hoa đôi khi thật giống kiếp người, một số kiếp không được đo bằng thời gian mà bằng giá trị sống. Bông hoa kia dù biết sẽ "sớm nở tối tàn "vẫn cứ ngang nhiên tươi nở, trao tặng vẻ đẹp và hương thơm, được ngần nào thì hay ngần nấy, với tất cả khả năng và sức lực của mình. Bạn cũng vậy, hãy cống hiến cho đời tất cả những gì bạn có với tấm lòng yêu thương. Trên đất sống của mình, hãy cho những người chung quanh những điều tốt đẹp nhất. Cuộc sống sẽ dễ chịu biết bao khi có nhiều hoa đẹp tỏa hương thơm, khi có những người quyết sống như những bông hoa trong vườn hoa muôn sắc mầu của nhân loại, để trao ban cho thế giới những giá trị nhân bản huy hoàng.


HỘI CHỨNG " ĐÁM ĐÔNG "


"Một cậu bé đang đi trên lề đường bỗng dừng lại, ngửa mặt lên trời. Có 1 vị giáo sư đi tới, thấy thế cũng ngạc nhiên dừng lại, ngước mắt nhìn theo. Rồi 1 bà đứng tuổi đi ngang qua cũng làm y như vậy; 1 người, rồi 1 người nữa… Lúc cậu bé cúi xuống , quay ngang quay ngửa, ngạc nhiên khi thấy cả chục người đứng chung quanh mình, cậu hỏi :"Ủa ! Các ông các bà cũng bị chảy máu cam như cháu sao ? ".

Câu chuyện vui đã nói lên phần nào cái gọi là hội chứng "đám đông ". Chúng ta thật dễ bắt chước, dễ nghe theo, dễ nói theo đám đông…Cứ đám đông là "có lý ", là "đủ mạnh" để thuyết phục, để đè bẹp. Chúng ta dễ dãi nhưng đám đông cũng dễ dãi, dễ bị kích động, dẫn dắt. Cách đây gần 2000 năm, đã có một đám đông reo hò đón Vua Giêsu vào thành Giêrusalem ( Palestine ), rồi cũng chính đám đông cuồng nhiệt này đòi đóng đinh Ngài vài ngày sau đó. Sức mạnh của đám đông thật đáng sợ, nhất là khi nó trở thành mù quáng. Và đáng sợ hơn nữa khi chúng ta không tự chủ được mà bị cuốn theo, bị chi phối. Vì sợ người ta nhìn, người ta nói, con người bị "vong thân ".  Nói theo ngôn ngữ của  triết gia Heidegger ( Đức): con người trở thành "nô lệ " cho "đế quốc người ta " ( L'Empire "On" ), họ đeo "mặt nạ ", đánh mất bản thân mình. Phần chúng ta hôm nay, liệu bạn có dám thành thật với chính mình cho dù có làm người khác thất vọng không? Bạn có dám bảo vệ chân lý cho dù có phải "đi ngược chiều " với cả một đám đông vô lý không ? Đây không phải là vấn đề sống lập dị hay là chơi trội, cho bằng sống đúng phẩm cách con người giữa đám đông và cho đám đông. Ở đây, chúng ta trở lại thái độ điềm tĩnh của Đức Vua Giêsu, Ngài yêu đám đông nhưng không lệ thuộc đám đông, bình thản tiến bước giữa những lời hoan hô cũng như đả đảo để sống yêu thương đến tận cùng, để hận thù và sự dữ bị đánh bại, cho dù chúng có đông đến đâu và mạnh đến đâu. Tuy nhiên, với chúng ta, việc sống yêu thương và thành thực quả không dễ dàng, vì con người vốn có khuynh hướng nghiêng theo những gì dễ dãi, bề ngoài, hùa theo người khác, hơn là đi vào nội tâm, sống trung thực với chính mình, có lập trường nhất định.

Thường thì chuyện sống theo đám đông và đánh mất mình, được khởi đầu từ những điều rất nhỏ : thấy 1 việc không ổn mà chúng ta cũng cứ làm với những lý luận như :" Thôi thì vì nể mặt ", " Chỉ làm lần này nữa thôi ", "Ai cũng làm vậy cả mà "… Làm chúng ta ngày càng lún sâu hơn, lương tâm càng lúc càng bớt dằn vặt hơn. Rồi sự sợ hãi vì đã làm sai, vì sợ đám đông, làm cho đám đông ngày càng trở nên đáng sợ, chi phối cuộc sống, biến chúng ta thành những người làm việc qua quýt, vô trách nhiệm, làm dở mà nói hay, mánh mung kiếm lợi, a dua để được yên thân… Nếu lỡ ra có bị đánh giá hay phải tự trách thì cũng nhận tội cách tổng quát như : thiếu ý thức chung, hiểu biết giới hạn, suy nghĩ chưa tới… Rồi quay ra đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho đám đông : "Đây là lỗi của người khác…Tại kỷ luật tập thể chưa chặt chẽ …". Làm như mình vô tội, hoàn toàn không có chút trách nhiệm nào. Đó phải chăng là điều xã hội mong đợi nơi bạn và tôi ?

Không ! Cho dù xã hội có "xuống dốc " đến đâu cũng vẫn mong có những con người tốt đẹp như bạn, dám xây dựng cuộc đời. Những người dám tự mình suy nghĩ chứ không nghĩ theo đám đông đôi khi cuồng tín, họ dám nhìn nhận những giá trị chân thực nơi con người và công việc, việc nào cần làm trước, người nào cần tin tưởng, lúc nào cần lên tiếng cho dù là những tiếng đơn độc trong sa mạc không được vỗ tay. Rồi còn phải nghe và phải "không nghe "những lời đầy thành kiến của dư luận để biết đúng sai, để đi đến tận căn nguyên "tại sao "mà giải quyết sự việc thật đúng đắn và hợp lý. Bạn phải thật sự tin tưởng vào mình, không như 1 người tự tôn,nhưng như 1 người bản lãnh, dứt khoát không do dự, dám lựa chọn, dám sống và thực hiện những lựa chọn của mình. Bạn sẽ không đánh giá một người khác chỉ đơn thuần vì nghe đám đông đánh giá; bạn thà mang những hiểu lầm và tiếng xấu  hơn là phản bội con người thực của mình đầy phẩm cách sáng ngời. Hãy nhớ rằng : xấu hay tốt không chỉ do người ta nhận xét, hãy tự hỏi lòng mình là xấu hay tốt khi nói một lời, khi làm một việc gì cho người khác, đó mới là con người chân chính, không bị ảnh hưởng bởi tiếng khen chê của hội chứng "đám đông ".

Người ta thường nói đùa: dư luận nhiều khi là mớ "luận dư ", chắc bạn nhớ chuyện hai cha con ông lão dắt lừa ra chợ bán. Có người thấy thế bĩu môi:"Có lừa mà không chịu cưỡi, thật là khờ khạo ". Ông lão nghe vậy liền đặt đứa con lên lưng lừa; đi một đoạn, gặp một bà lão chê bai :"Thằng con khoẻ mạnh thế kia mà lại để ông bố già nua đi bộ, thật bất hiếu ". Ông lão bèn bảo con xuống cho mình ngồi, lại có anh nông dân thấy và nói :"Lão già không biết xấu hổ, ngồi vênh mặt trên lưng lừa, bắt thằng con tội nghiệp đi bộ ".Ông lão bèn nghĩ ra cách vẹn toàn : cho thằng con cùng ngồi với mình trên lưng lừa . Gần đến chợ, lại có đám người chỉ trích :"Hai cha con lão này thật ác độc, con lừa gầy yếu thế kia mà phải chở nặng, muốn để nó chết bẹp à ? "Ông lão thở dài nói với con :"Ở sao cho vừa lòng người, thôi cha con mình dắt  lừa đi bộ vậy ". Nếu là bạn, bạn nghĩ sao ?

Dĩ nhiên, có nhiều lúc đám đông cũng có lý, khiến chúng ta phải tôn trọng lời nói của đa số và dẹp bỏ sự chủ quan của mình (điều này sẽ nói trong bài tới ). Nhưng khi đã phân rõ phải trái với lương tâm trong sáng, bạn hãy can đảm thực thi những giá trị nhân bản, hãy làm cho con người được tôn trọng và nâng cao, bạn sẽ là người đầy đạo đức trong xã hội tươi thắm tình người.

Và để dám nghĩ , dám nói, dám tin, dám làm; bạn hãy cố gắng thoát khỏi ảnh hưởng "một chiều " của đám đông, chúng ta không coi thường nhưng cũng đừng quá coi trọng đến độ sợ dư luận. Khi bạn làm một việc gì mà không vì sợ lời chỉ trích hay vì cần lời khen tặng của đám đông, họ lại kính nể bạn, vì bạn không là nô lệ mà sống như một người tự do, có thể đem sức mình xây dựng những gì tốt đẹp nhất cho cuộc sống con người .




Thứ Sáu, 16 tháng 2, 2018

Những địa điểm hành hương kính Đức Mẹ tại Việt Nam

Chúng ta luôn gọi Đức Mẹ với nhiều danh xưng: Hiền Mẫu luôn yêu thương che chở con cái- Sao Biển hay Hải Đăng dẫn lối cho những con tàu về bến bình an- Trạng Sư bênh đỡ tội nhân là chúng ta trước Vị Thẩm Phán chính trực quyền uy là Thiên Chúa- Nữ Vương bình An- Nữ Vương Thiên Đàng- Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc- Nữ Vương Truyền Phép Mân Côi …
Những địa điểm hành hương kính Đức Mẹ tại Việt Nam

Nhưng muốn được hưởng những hồng ân Thiên Chúa phải nhờ bàn tay chuyển tiếp của Đức Mẹ mà phương tiện nguyện cầu hữu hiệu nhất không gì bằng Kinh Mân Côi: Chuỗi Hoa Xuân Linh Diệu. Chính vì thế, nên mỗi độ Xuân về con cái Mẹ lại nô nức tìm về những điểm hành hương, quì dưới chân Mẹ để đón nhận Hoa Thiêng Mẹ ban.

Trong những lần Đức Mẹ hiện ra nhiều nơi trên thế giới, Mẹ luôn nhắc bảo loài người phải năng lần Chuỗi Mân Côi để tránh sự trừng phạt của Thiên Chúa như tại Fatima (Bồ Đào Nha), Lộ Đức, La Salette (Pháp), Guadalupe (Mễ Tây Cơ), Medjugorge hay Mễ Du (Nam Tư), Naju(Hàn Quốc), Đức Mẹ Đen (Bỉ), Đức Mẹ núi Camêlô hay Cát Minh ( Thánh Địa) …

Riêng tại Việt Nam, giáo dân đặc biệt tôn sùng Đức Mẹ: nhiều Thánh đường dâng kính Đức Mẹ, nhiều hội đoàn nhận Đức Mẹ là Quan Thày, nhiều địa điển hành hương với những Đại hội mừng kính Mẹ long trọng và hân hoan …

Trong những ngày đầu Năm Mới, nhiều Đại hôi Hành hương Kính Đức Mẹ được tổ chức rất trọng thể tại nhiều Giáo Phận trong Đất Nước.

Xin giới thiệu cùng Quí độc giả những địa điểm Hành Hương nổi tiếng kính Đức Mẹ tại Việt Nam sau đây:

 
LaVang.jpg

*Mẹ La Vang.
 
 - Địa điểm: La Vang thuộc làng Cổ Vưu, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, Tổng Giáo Phận Huế.

Từ ngữ La Vang có 2 giả thuyết: (1) Nơi xưa kia là rừng hoang nước độc, nhiều thú dữ, nên những người đi rừng khi gặp nguy hiểm phải ‘la’ to để tiếng ‘vang’ xa cho người khác biết đến tiếp cứu. (2) Nơi Đức Mẹ hiện ra có loại cây gọi ‘lá vằng’ Đức Mẹ đã bảo giáo dân lấy để chữa bệnh.

-Sự tích: Dưới thời vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn, ngày 17/8/1798 ban chiếu chỉ cấm đạo Gia-tô,

1 số giáo dân chạy trốn vào rừng hẻo lánh La Vang để giữ đạo. Sống trong hoàn cảnh khó khăn thiếu ăn, bệnh tật..vừa sợ quan quân vây bắt, vừa sợ thú rừng làm hại. Nhưng mọi người luôn vững tin và

phó thác trong tay Chúa và Đức Mẹ, họ thường tụ họp dưới gốc cây đọc kinh cầu nguyện. Đức Mẹ đã hiện ra tay bồng Chúa Hài Nhi, có ThiênThần chầu hai bên. Mẹ an ủi giáo dân vui lòng chịu khó và dạy hái lá cây đem nấu để chữa bệnh. Đức Mẹ hứa:”Mẹ đã nhận lời các con cầu xin. Từ nay hễ ai chạy đến cầu khấn Mẹ tại nơi này.Mẹ sẽ ban ơn theo ý nguyện”

Từ ngày đó đến nay, nhiều người thành tâm đến cầu xin đã được Mẹ ban ơn.

Nơi Đức Mẹ hiện ra, một Thánh đường đã được xây kính Mẹ, nhưng bị tàn phá vì chiến tranh năm 1972- Mãi đến ngày Lễ Đức Mẹ Lên Trời 15/8/13, Lễ Đặt Viện Đá Xây Vương Cung Thánh Đường theo kiến trúc Á Đông mới được thực hiện.

Biểu tượng Đức Mẹ La Vang: bồng Chúa Hài Đồng, mặc áo dài truyền thống Việt Nam.

La Vang trở thành Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc và cứ 3 năm một lần Đại Hội Hành hương thường tổ chức vào dịp Lễ Đức Mẹ Lên Trời. 

‘Tôi người con viễn xứ,
Sống xa quê mỏi mòn,
Có ai về Quảng Trị,
Đến Linh địa La Vang, 
Xin gởi ngàn thương nhớ,
Mẹ Việt Nam vô vàn! ....


 
TraKieu.jpg

*Mẹ Trà Kiệu.
 
 - Địa điểm: Nhà thờ kính Đức Mẹ xây trên đồi Bửu Châu, xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam,Giáo phận Đà Nẵng. Trà Kiệu là cố đô của người Chiêm Thành xưa.

- Sự tích: Ngày 1/9/1885, lính Văn Thân kéo đến vây làng Trà Kiệu định tàn sát người Công Giáo vì cho là các tín hữu đã tiếp tay với Pháp xâm chiếm Việt Nam. Phía Văn Thân mạnh hơn nhiều với 4000 quân lính được trang bị vũ khí đầy đủ và súng thần công. Trong khi họ đạo chỉ có 400 thanh niên vũ khí thô sơ xông ra chiến đấu với khẩu hiệu ‘Giêsu-Maria-Giuse’, còn người già và trẻ em tập trung dưới chân tượng Đức Mẹ cầu nguyện. Phía Văn Thân tập trung hỏa lực bắn phá Thánh đường nhưng không thể nào trúng và chính viên chỉ huy thú nhận rằng đã nhìn thấy:

‘Nhiều em nhỏ áo đỏ áo trắng, tay cầm gươm từ trên không bay xuống hỗ trợ giáo dân do một Bà rất xinh đẹp đứng trên nóc nhà thờ chỉ huy’. Nên sau 20 ngày đêm chiến đấu lính Văn Thân phải tháo chạy và giáo dân chiếm lại đồi Bửu Châu nơi Văn Thân đặt bộ chỉ huy.

Năm 1898 giáo dân xây ngôi Thánh đường trên đồi Bửu Châu dâng kính Đức Mẹ mang tước hiệu Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu. Ngày 31/5/71 Đức Giám Mục Phêrô Maria Phạm ngọc Chi đã chọn Trà Kiệu làm Trung Tâm Thánh Mẫu của Giáo Phận Đà Nẵng và 3 năm một lần Đại hội hành hương được tổ chức. Năm 2013 Đại Hội long trọng diễn ra trong 3 ngày 29,30, 31/5 Mừng kính 128 năm Mẹ hiện ra và kỷ niệm 50 năm thành lập Giáo Phận. 

‘ …Nơi ấn dấu một thời,
Nhân chứng giữa đất trời,
Giáo dân làng Trà Kiệu,
Đức tin tỏa sáng ngời ‘ ….


 
LamaBenTre.jpg

*Mẹ La Mã, Bến Tre.
 
 - Địa điểm: Nhà thờ La Mã thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, Giáo Phận Vĩnh Long. Lã Mã là họ Bầu Dơi xưa kia, được Đức Giám Mục Phêrô Mactinô Ngô đình Thục đặt tên ngày 11/11/1949.

- Sự tích: Năm 1930 Lm Luca Sách chánh xứ Cái Bông khi thành lập họ đạo Sơn Đốc đã tặng nhà thờ ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. 1947 giáo dân phải tản cư vì chiến tranh.Đầu năm 1950 ông trùm họ đạo mang ảnh Đức Mẹ về giao cho con trai cất giữ. Ngày 2/2/50 quân Pháp bố ráp vùng Bầu Dơi, có người chạy đem theo ảnh Đức Mẹ nhưng dọc đường sợ hãi ném xuống sông.

Ba tháng sau ngày 5/5/50, một phụ nữ đạo Cao Đài đi mò cua bắt ốc vô tình vớt được ảnh, nhưng đã bị lu mờ vì bùn bám đầy. Chính con trai ông trùm xin lại ảnh đem về lau chùi sạch sẽ, nhưng vẫn không lộ hình nên không thể thờ kính, bèn gác trên mái nhà. Khi ông trùm sang giúp con dọn dẹp nhà thấy tấm hình, ông la rày và đem ảnh về đặt trên bàn thờ. Tháng 10/50 chiến tranh lại bùng nổ, dân làng Bầu Dơi chạy trốn chỉ còn hai cha con ông trùm núp sau bàn thờ luôn miệng cầu xin Đức Mẹ phù hộ. Chiến cuộc chấm dứt, nhà cưa bị hư hại, nhưng tủ thờ còn nguyên vẹn.

Ông ngước nhìn lên ảnh thì thấy hình Đức Mẹ hiện rõ. Hôm sau, nhiều người trong họ đạo đã được chứng kiến hiện tượng lạ này. Ngày 20/6/51 họ đạo La Mã đã long trọng rước Đức Mẹ về nhà thờ với sự tham dự đông đảo giáo dân cùng một số tín đồ các tôn giáo khác.

Qua bao năm tháng, người người nô nức đổ về cầu xin dưới chân Mẹ Hằng Cứu Giúp và đã nhận được nhiều ơn lành.

Ngày 5/5/13 Giáo Phận Vĩnh Long đã tổ chức trọng thể kỷ niệm 63 năm (5/5/50- 5/5/13) tìm lại 

Linh Ảnh Mẹ. Đức Cha Tôma Nguyễn văn Tân chủ lễ cùng 33 Linh Mục đồng tế và hàng chục ngàn giáo dân, du khách, dòng tu, đại diện Cộng đoàn nhiều Giáo Phận về tham dự.

‘ Nghe trong tiếng gió ai ơi!
Tìm về La Mã là nơi lưu truyền,
Mẹ Hằng Cứu Giúp uy quyền,
Dâng đời tín thác Mẹ hiền chở che,
Người về sông nước Bến Tre,
Có nghe sóng vỗ Hồn Quê dâng trào’ … …


 
Tapao.jpg

*Mẹ Tà- Pao.
 
 - Địa điểm: Tà Pao thuộc xã Đồng Kho, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận, Giáo Phận Phan Thiết.

Tà Pao theo tiếng dân tộc K’Ho nghĩa là giấc mơ đẹp.

-Sự tích: 1950 nhân dịp Đại hội Thánh Mẫu Toàn Quốc kỷ niệm 100 Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức. Tổng Thống Ngô đình Diệm chỉ thị cho Phủ Tổng Ủy Dinh Điền xây 5 tượng đài kính Đức Mẹ vào những năm 59, 60 và 61 tại Giang Sơn (Đắc lắc)- Thác Mơ (Phước Long)- Phương Hoàng (Kontum)- Trinh Phong (Ninh Thuận) và Tà Pao (Bình Tuy nay là Bình Thuận).

Ngày 8/12/59 Lễ cung hiến Thánh Tượng Đức Mẹ Tà Pao do Đức Cha Marcello Piquet cử hành với sự tham dự đông đủ các Linh Mục, Tu sĩ và hàng ngàn giáo dân.

Từ năm 1964 đến 1975, vì chiến tranh giáo dân lưu lạc khắp nơi, Tượng Đức Mẹ bị bể nát và bỏ quên. Mãi đến năm 1991 Đức Cha Nicôla Huỳnh văn Nghi Giám Mục Phan Thiết mới cho trùng tu lại Tượng Đức Mẹ. Ngày 29/9/99 ba em nhỏ đã trông thấy Đức Mẹ hiện ra bay về phía sau núi và theo lời tường thuật một số đông dân chúng trong đó có cả phóng viên nước ngoài đã được chứng kiến hiện tượng mặt trời quay như ở Fatima và đã chụp hình quay phim hiện tượng này. Tuy những hiện tượng trên chưa được Giáo Hội chính thức công bố, nhưng lòng nhiệt thành tin tưởng của giáo dân vào quyền năng của Đức Mẹ không suy giảm, nên đoàn người vẫn lũ lượt đổ về Tà Pao cầu xin ơn lành.

Công trình xây dựng Tượng đài kính Đức Mẹ đã hoàn tất ngày 13/5/07 và Giáo phận Phan Thiết năm 2009 đã long trọng Kỷ niệm 50 (1950- 2007) đặt Tượng Đức Mẹ trên đỉnh Tà Pao.

‘ Tà Pao lên giấc mơ hồng,
Rừng thiêng sương quyện, núi dâng mây ngàn,
Tô thêm nét đẹp Giang San,
Lòng con xao xuyến ngập tràn tin yêu’ …. 


 
MeMangDen.jpg

*Mẹ Măng Đen.
 
 - Địa điểm: Măng Đen là tên bản thượng của dân tộc thiểu số thuộc xã Đắc Long, huyện Kon Plong, tỉnh Kontum, Giáo Phận Kon tum.

- Sự tích: Năm 1971 Linh Mục Tôma Lê thành Ánh trao tặng tiền đồn Măng Đen 1 Tượng nguyên mẫu Đức Mẹ Fatima. Nhưng đến năm 1974 tiền đồn do hỏa lực chiến tranh tàn phá phải triệt bỏ và Tượng Đức Mẹ bị lãng quên …Đầu thập niên 1980, chính quyền Cộng Sản thành lập các vùng kinh tế mới, người dân đã phát hiện ra Tượng Đức Mẹ nhưng không quan tâm đến. Mãi đến năm 2004 khi thi công mở Quốc lộ 24, một công nhân Công Giáo đã mang Tượng Đức Mẹ về phục chế vì đã mất đầu và hai tay.Phần đầu phục chế được, nhưng hai tay sau nhiều lần cố ráp nối vẫn lại rời ra, nên để nguyên Tượng Đức Mẹ cụt tay như ta thấy ngày nay.

Ngày 9/12/07, Đức Cha Micae Hoàng đức Oanh Giám Mục Kontum cùng với các Linh Mục, Tu sĩ và 2000 giáo dân dâng Thánh lễ trọng kính Đức Mẹ tại đây và hàng năm Giáo phận Kontum lấy ngày 9/12 là ngày Đại hội Hành hương kính Mẹ Măng Đen.

Ngày 10/9/11, Đức Tổng Giám Mục Sứ Thần Tòa Thánh Leopoldo Girelli được Đức Cha Hoàng đức Oanh hướng dân đến kính viếng và chủ trì Thánh lễ Tôn kính Đức Mẹ và Ngài hết sức xúc động nói với giáo dân:”Hãy cho Mẹ mượn bàn tay để giúp đỡ mọi người!”. Ý nguyện của Đức TGM và Đức Cha giáo phận cùng con cái muốn nhận Đức Mẹ là Quan Thày Người Khuyết Tật.

“Núi rừng ôm thiết tha,
Tình thương mến chan hòa,
Vây quanh dưới chân Mẹ,
Bản người cùi Măng Yang .” …..


Ngoài những Linh địa hành hương nêu trên, chúng ta cũng thường nghe nhắc đến những địa điểm tôn kính Đức Mẹ tại nhiều nơi trên quê hương như Đức Mẹ Fatima Bình Triệu, Bãi Dâu Vũng Tàu, Giang Sơn Đắc lắc, Thác Mơ Phước Long, Phượng Hoàng Pleiku, Trinh Phong Ninh Thuận …..

Với lòng Tôn sùng Đức Mẹ, người viết xin ghi lại vài dòng giới thiệu sơ lược cùng bạn đọc những ‘địa điểm và sự tích’ nơi chúng ta đã có dịp đến hay sẽ đến kính viếng Mẹ Việt Nam.

“ Về đây Linh địa hành hương,
Thân thương nối kết con đường Việt Nam,
Về đây sẽ thấy bình an,
Mẹ sẽ ban phát muôn ngàn hồng ân “.

Đinh văn Tiến Hùng



Thứ Năm, 8 tháng 2, 2018

Các mối phúc

Phúc cho người nhớ đi chậm trên con đường riêng của mình, khi cùng đi với người khác,

Phúc cho ai tin rằng mình bị loại trừ, biết  lắng nghe và tiếp thu .

Phúc cho bạn nếu  biết  im lặng và vẫn nở nụ cười khi bị cắt lời, bị nói ngược hoặc bị dẫm chân :
Phúc Âm bắt đầu thâm nhập vào con tim của bạn.

Phúc cho ai biết lắng nghe sự tốt lành chưa từng thấy của người khác.

Phúc cho ai biết nói về những người nghèo và người bị khai trừ lúc họ ở xa, lại không câm điếc dửng dưng với tiếng nói của họ, khi họ kề bên.

Phúc cho bạn nếu  biết  nhìn nghiêm túc những điều nhỏ và nhìn những điều quan trọng một cách bình thản ! Bạn sẽ thành công trong cuộc sống.

Phúc cho bạn nếu biết chiêm ngưỡng một nụ cười và quên đi khuôn mặt nhăn nhó , đường bạn đi sẽ rực nắng xuân.

Phúc cho bạn nếu luôn có khả năng giải thích với lòng nhân từ với những thái độ  chống đối mình, ngay cả khi bề ngoài trái ngược : bạn như kẻ ngây thơ, nhưng có tình bác ái đầgiá trị.

Phúc cho ai sẵn sàng bày tỏ những ý tưởng của mình khi chấp nhận  những người khác từ chối tham gia.

Phúc cho ai không tự cho mình là trung tâm của nhân loại.

Phúc cho ai không sợ thử thách, cắm rễ sâu trong kiên nhẫn, và không bao giờ mệt mỏi bước những bước chân ngắn, xích lại gần những người khác.

Phúc cho người biết miệng nói, tay làm, hài hoà sự đấu tranh bản thân và tập thể , dung hoà giữa sự quan tâm đến con người và những hành động của cơ chế.

Hạnh phúc thay ai đặt mình trước Chúa mỗi ngày trong lời cầu nguyện , họ sẽ trở nên hữu hiệu nhờ   ân sủng của Ngài.

Phúc thay ai khiêm nhường , họ sẽ yêu thương như  Chúa.

Phúc cho ai luôn hy vọng, họ sẽ tìm thấy con đường dẫn vào trái tim của những người khác và Thiên Chúa.



ĐẾN LƯỢT BẠN
Nếu bạn cũng lên đường.
Thế giới đang cần bạn, bạn biết đấy,
Đừng nói rằng đấy là việc của những cha xứ,
đấy cũng là việc của bạn, bạn được mời gọi.
Ngày lễ rửa tội của bạn, Hội Thánh đã nói với bạn rằng :
"Từ đây, con là tư tế, tiên tri và vương đế ".

Nếu bạn cũng nói:
Có thật nhiều người trò chuyện
có quá nhiều những từ ngữ vô ích
làm nhiễu loạn báo chí, truyền hình,
và mọi quảng cáo náo động.
Dầu vậy, người ta vẫn cần lời nói,
vậy thì, bạn đừng ngại nói.

Nếu bạn cũng hành động
không chỉ với những từ ngữ và hứa hẹn
nhưng dám liều mình
trên tất cả những điều dệt nên cuộc sống hàng ngày.
Lúc đó, có thể có điều gì đó sẽ thay đổi.
Khi có ai đó hành động trên thế giới,
những người khác buộc lòng phải đổi chỗ.
Hãy ra đi và hành động .

Thứ Năm, 1 tháng 2, 2018

BÓ ĐUỐC

Bạn đã từng cầm bó đuốc chưa? Có phải bạn không cầm bó đuốc ở trước mắt để chiếu sáng mặt mình chứ? Vì như thế sẽ làm lóa mắt của bạn mà lại không chiếu sáng rõ con đường trước mặt.

Bạn cũng sẽ không cầm ngược bó đuốc để chiếu sáng chân của bạn chứ? Vì bó đuốc cầm ngược sẽ làm bỏng tay của bạn.

Bạn đương nhiên sẽ đưa bó đuốc lên cao, vì chỉ như vậy mới có thể chiếu sáng phạm vi lớn.

Danh dự cũng giống như bó đuốc vậy.

Đừng nâng bê nó hàng ngày ở trước mắt, như thế chỉ khiến bạn say sưa ngây ngất mà khó lập nên công tích gì.

Đừng xem nó không đáng gì mà tùy tiện vứt bỏ đi, vì người càng nổi tiếng, thì khi mắc sai lầm, càng dễ làm trò cười cho người khác.

Bạn nên để danh dự ở trên đỉnh, không để chiếu sáng mặt của mình, không chỉ để chiếu sáng con đường đi của mình, mà còn để tạo ra ánh sáng cho mọi người.

Một bó đuốc có thể thắp đốt ngàn vạn bó đuốc khác. Một bó đuốc có thể thiêu cháy cả một cánh rừng rộng lớn. Dùng danh dự tốt đẹp của bạn để gầy dựng danh dự tốt đẹp cho người khác, chứ đừng dùng danh dự, địa vị và sự quang vinh của bạn để làm tổn hại những người xem ra bé nhỏ không đáng kể.

  • Trừ phi bạn tiếp tục duy trì ngọn lửa, còn thì không bó đuốc nào là không tắt.
  • Trừ phi bạn dùng danh dự của bạn để gầy dựng cho người khác, còn thì không có danh dự của một cá nhân nào có thể mãi mãi được người khác truyền tụng.




MIẾNG MỒI NGUY HIỂM

 Một con đại bàng chúi xuống và chộp được một con cá bằng móng vuốt của nó. Thế nhưng con cá lại rất to, có lẽ ngoài dự tính của con đại bàng. Khi nó bắt đầu bay vào bờ, bạn có thể thấy rõ sự căng thẳng trên vẻ mặt của nó. Nó biết sẽ không đủ sức để vừa bay vừa quắp con cá đó vào bờ, thế là nó quyết định thả con mồi xuống. Thế nhưng những móng vuốt của nó đã bấu quá chặt vào con mồi nên giờ đây không thể thả ra. Nó vùng vẫy nhưng vô vọng. Con đại bàng từ từ chìm xuống nước và chết vì...không thể thoát khỏi con mồi của nó.
Nhiều lúc trong cuộc sống chúng ta cũng gặp phải những "miếng mồi" nguy hiểm như vậy. Chúng ta có cảm giác bất kỳ lúc nào mình đều có thể thả nó ra, nhưng chính lúc đó lại hiểu rằng giờ đây không phải là chúng ta chộp lấy nó mà chính nó đang chộp lấy mình.

***

Hãy cảnh giác với những "miếng mồi nguy hiểm" đó.
Nhiều người nghĩ rằng bất kỳ lúc nào mình thích, mình đều có thể bỏ.
Thế nhưng hậu quả thường rất đáng tiếc.
Họ đã bị chính những thứ đó bám chặt lấy
và giết chết cuộc đời của họ.

Sưu tầm.
NGƯỜI THÀNH CÔNG....
Ba chiếc chìa khóa dẫn tới cuộc sống mãn nguyện: quan tâm tới người khác, dám làm vì người khác, chia sẻ cùng người khác. - William Arthur Ward

  • - Người thành công biết chính xác những gì mình muốn, tin tưởng vào khả năng của mình và sẵn sàng cống hiến hết thời gian của cuộc đời để đạt được điều đó. 
  • - Người thất bại không có mục đích cụ thể cho cuộc sống, luôn tin rằng mọi thành công đều là kết quả của vận may và chỉ thật sự bắt tay vào việc khi có sự tác động từ bên ngoài.

  • - Người thành công có khả năng ảnh hưởng đến những người xung quanh và hợp tác với họ trong thái độ thân thiện. 
  • - Người thất bại tìm thấy khuyết điểm của mình ở người khác. 

CON TIM THIÊN CHÚA LÀ NƠI TRÚ ẨN CỦA TỘI NHÂN

  • - Người thành công chỉ bày tỏ ý kiến về những điều mình biết và họ hoàn toàn có thể thực hiện điều đó một cách rất khôn ngoan.
  • - Người thất bại phát biểu ý kiến về mọi vấn đề mà họ chỉ biết chút ít hoặc hoàn toàn không có một chút kiến thức gì về chúng.

  • - Người thành công dung hoà quan hệ với tất cả mọi người mà không quan tâm đến lợi ích đạt được. 
  • - Người thất bại chỉ nuôi dưỡng quan hệ với những ai mà từ đó họ sẽ có những thứ mà họ muốn. 

  • - Người thành công luôn trao dồi kiến thức và mở rộng lòng khoan dung. Họ sống hướng đến quyền lợi chung của cộng đồng. 
  • - Người thất bại có trí tuệ hạn chế, sự vị kỷ chiến thắng lòng vị tha. Vì vậy họ tách khỏi những cơ hội thuận lợi và mối quan hệ thân thiện với xã hội. 

  • - Người thành công theo kịp thời đại và xem đây là một trách nhiệm quan trọng để biết được điều gì đang diễn ra. 
  • - Người thất bại chỉ quan tâm đến bản thân với những nhu cầu trước mắt và bất chấp mọi thứ để thực hiện, không cần biết đó là điều tốt hay xấu. 

Tác giả: Khuyết Danh


Nếu Quý Vị thấy hữu ích, hãy chia sẻ