Hiển thị các bài đăng có nhãn CÁC THÁNH. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CÁC THÁNH. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 30 tháng 1, 2018

THOMAS AQUINAS – TIẾN SĨ KHIÊM NHƯỜNG

THOMAS AQUINASThánh Thomas Aquinas (Toma Aquino, 1225–1274) là phát ngôn viên xuất sắc của truyền thống Công giáo về tín lý và mạc khải.  Ngài là 1 trong 4 thầy dạy vĩ đại của Giáo hội Công giáo thời Trung cổ (3 vị kia là Alexandre Hales, Albert Cả và Bonaventura), Ngài được tôn vinh là Tiến sĩ Giáo hội và Tiến sĩ Thiên thần.  Thomas thông thái xuất chúng nhưng rất khiêm nhường.
Thomas Aquinas chào đời vào mùa xuân năm 1225 tại Rocca-secca, gần Aquino, một thị trấn ở miền Nam nước Ý.  Thomas là con trai thứ ba trong một gia đình vị vọng: Ông bà Bá Tước Landolfo và Theodora.
Lúc 5 tuổi (1230), Thomas được song thân gửi vào Đan viện Biển Đức tại Cassino để thụ huấn.  Song thân của Thomas hy vọng con trai sẽ trở thành Tu viện trưởng của Đan viện này, vì điều đó sẽ làm cho ảnh hưởng của thân phụ lan rộng hơn, và để làm vẻ vang dòng dõi quý tộc.  Nhưng năm 1235, Thomas phải rời Đan viện vì có sự tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, trong đó có sự tham dự của các vị lãnh đạo thành Aquino.  Là con vị lãnh chúa vùng Aquinas thuộc hoàng tộc Hohenstanfen nhưng Thomas không thích thế quyền.
Năm 1239, Thomas bắt đầu theo học tại phân khoa nghệ thuật Đại học Neapoli, và tốt nghiệp năm 1244, lúc đó Thomas vừa tròn 19 tuổi.  Tại đây, ngài rất say mê triết học của Aristote.  Cũng chính thời gian này Thomas khám phá ra ơn gọi tu trì.
Năm 1243, Thomas bỏ kế hoạch của gia đình và xin vào Dòng Anh Em Thuyết Giáo (Dòng Đa-minh), mẹ ngài rất thất vọng.  Thế nên mẹ ngài cho người bắt ngài về và biệt giam ngài ở nhà hơn 1 năm.  Thậm chí gia đình còn thuê gái điếm vào quyến rũ Thomas, nhưng ngài đã lấy cây củi đang cháy trong lò sưởi mà đuổi đi.  Ngài vẽ hình Thánh Giá trên tường và qùy xuống cầu nguyện.  Thiên thần hiện ra thắt dây đồng trinh cho ngài.  Vì thế, ngài còn được gọi là Tiến sĩ thiên thần.  Sau 1 tháng, ả gái điếm đành chịu thua.  Người chị thương em nên giúp Thomas trốn khỏi nhà.
Khi được tự do, ngài đi Paris rồi tới Cologne và hoàn tất việc học với Thánh Albert Cả.  Ngài tốt nghiệp và làm giáo sư tại Paris khi mới ngoài 20 tuổi.  Ngài sống trong dinh của Đức Giáo Hoàng Urban IV, hướng dẫn các trường dòng Đa-minh ở Rome và Viterbo, tranh luận với các tu sĩ khất thực, tranh luận với một số tu sĩ Dòng Phanxicô về thuyết của Aristote, và chống lại giáo thuyết Manich, kể cả phái Averroist.  Trong trường, Thomas rất ít nói.  Ngài thường suy tư đến ngây người nên bị gán cho biệt danh “con bò câm xứ Silixia.”  Giáo sư Albert biết lực học của Thomas nên nói trước lớp: “Hãy học theo Thomas trong cách suy nghĩ.  Đó là một con bò, nhưng tiếng rống của con bò này sẽ vang dội khắp thế giới.”  Quả thật, lời tiên báo đó của Thánh Albert Cả đã ứng nghiệm.
Năm 1248, Thomas theo thầy Albert về Cologne dạy học và tiếp tục nghiên cứu.  Cũng tại đây, Thomas được lãnh tác vụ linh mục và dần dần trở nên nổi tiếng về sự thông thái và thánh thiện.  Giáo quyền muốn dành cho Thomas nhiều chức tước và đặc ân, nhưng Thomas từ chối tất cả, chỉ muốn làm một tu sĩ bình thường, không danh vọng, không chức tước.
Trong thời gian làm giáo sư, Thomas đã đọc nhiều tác phẩm thuộc đủ các môn và đã sáng tác nhiều tác phẩm triết học và thần học rất có giá trị.  Sinh thời, danh tiếng ngài vang dội, nhiều người đổ xô đến xin ý kiến ngài.  Người ta hỏi:
– Theo giáo sư, nhàn rỗi là gì?
– Là cái búa mà kẻ thù bổ xuống đầu bạn.
– Cái gì tạo ra sức mạnh của giáo sư: Kinh nguyện, việc làm hay ý chí?
– Kinh nguyện.  Ai không cầu nguyện thì như người lính ra trận không có vũ khí.
– Làm thế nào để được cứu độ?
– Phải khiêm nhường.
Khi ở Ý, Đức Giáo Hoàng Urban IV giao cho ngài nhiều trọng trách – như giảng thuyết cho người Do thái, và muốn trao mũ gậy giám mục cho ngài nhưng ngài từ chối để được dạy học và lo việc cho nhà dòng.  Tương truyền, Thomas đã đàm đạo với Đức Mẹ, các thánh và cả với Chúa Giêsu nữa.  Có lần Chúa Giêsu hỏi: “Sách con viết, Ta rất hài lòng.  Con muốn được thưởng gì?”  Thomas đáp: “Con chỉ muốn được yêu mến Chúa mà thôi.”
Công đóng góp to lớn của ngài cho Giáo hội Công giáo là những sách ngài viết, đặc biệt là bộ Tổng luận Thần học (Summa Theologiae) được viết từ năm 1266–1273.  Sự hiệp nhất, sự hài hòa và sự liên tục của đức tin và lý lẽ, của kiến thức con người tự nhiên và được mặc khải, tất cả đã thấm sâu vào những gì ngài viết.  Thánh Thomas, với tư cách là người-của-Phúc-Âm, đã trở thành người hăng hái bảo vệ chân lý mặc khải.  Ngài hiểu biết sâu rộng đủ để thấy trật tự thiên nhiên đến từ Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, và thấy lý lẽ là tặng phẩm từ trời rất được yêu mến.
Nhưng tác phẩm cuối cùng của ngài bộ Tổng luận Thần học, giải quyết toàn bộ Thần học Công giáo, lại chưa hoàn tất.  Ngài ngừng viết tác phẩm này sau khi cử hành Thánh lễ ngày 6-12-1273.  Khi được hỏi tại sao ngài ngừng viết, ngài khiêm nhường cho biết: “Tôi không thể tiếp tục… Những gì tôi đã viết có vẻ như rơm rác so với những gì tôi nhìn thấy và những gì tôi được mặc khải.”
Có một thời gian, sách của Thánh Thomas đã bị Giáo hội cấm vì cho là lạc giáo, nhưng sau đó lại công nhận và tuyên bố rằng ai không đọc sách của ngài sẽ bị lầm lạc.  Bất kỳ ai tu học làm linh mục đều phải học Triết học và Thần học của ngài.  Trước đây, các trường học đời cũng học Triết học của ngài, và ngay từ các lớp tiểu học, các học sinh đều đọc kinh cầu nguyện với ngài trước giờ học: “Lạy Thánh Thomas là quan thày các nhà trường…”.
Ngài đã được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô mời đến dự Công đồng Lyon II.  Nhưng khi đang trên đường tới dự Công đồng, ngài bị bệnh và qua đời ngày 7-3-1274 tại Đan viện Xitô Fossa Nuova, lúc đó ngài 49 tuổi – tuổi mà người ta cho là “tuổi độc” (49 chưa qua, 53 đã tới).  Ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan XXII tôn phong hiển thánh năm 1323, và được Đức Giáo Hoàng Piô V tôn phong Tiến sĩ Hội thánh năm 1567 vì đạo lý uyên bác và vững chắc của ngài.  Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã đặt ngài là bổn mạng các nhà thần học và các trường học Công giáo.  Giáo hội cử hành lễ nhớ Thánh Thomas Tiến sĩ ngày 28 tháng 1 hằng năm.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo hội một Thomas thánh thiện và thông thái, nhưng lại rất khiêm nhường; xin giúp con biết noi gương Thánh Thomas.  Lạy Thánh Thomas, bổn mạng đáng kính của con, xin soi sáng và hướng dẫn con ngay từ khi con suy nghĩ, và dạy con biết hành động như ngài, tất cả chỉ vì Danh Chúa chứ không vì thứ gì khác.  Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và cứu độ nhân loại. Amen.
Thom. Aq. Trầm Thiên Thu

Thứ Tư, 13 tháng 12, 2017

Thánh Juan Diego Một Mẫu Gương Khiêm Nhượng

Thánh Juan Diego Một Mẫu Gương Khiêm Nhượng
Vào tháng Tư năm 1990, tại Vatican, Juan Diego được ÐTC Gioan Phaolô II nâng lên Bậc Ðáng Kính. Và một tháng sau, trong chuyến viếng thăm Ðền Thánh Ðức Mẹ Guadalupe lần thứ hai, ÐTC Gioan Phaolô II đã Chủ tế thánh lễ Phong Chân Phước cho Juan Diego.
Vào tháng Bảy năm 2002, ÐTC Gioan Phaolô II viếng thăm Ðền Thánh Ðức Mẹ Guadalupe một lần nữa, và tại đây, ngài Chủ tế Thánh Lễ Tôn Phong Hiển Thánh cho Juan Diego.
Thánh Juan Diego là ai?
Hầu hết các sử gia đều đồng ý rằng, Juan Diego sinh vào năm 1474, tại Calpulli hay còn gọi là Tlayacac ở Cuauhtitlan, nằm cách Tenochtitlan (Thành Phố Mexicô) khoảng 14 cây số về phía Bắc. Là một ngôi làng được các người của Bộ Lạc Nahua thiết lập vào năm 1168, và bị Lãnh Chúa Axayacalt của dân Aztec đánh chiếm vào năm 1467.
Tên thật của Juan Diego là Cuauhtlatoatzin, có nghĩa là " con người nói như đại bàng" hay "như đại bàng nói".
Tập tài liệu "Nican Mopohua" diễn tả ngài như là một "macehualli" nghĩa là "người thổ dân nghèo", một người không thuộc về bất cứ một tầng lớp xã hội nào, chẳng phải là Thực dân, Tư tế, Chiến sĩ hay Thương gia ..., nhưng cũng không phải là một nô lệ; là một thành phần thấp nhất, loại cùng đinh trong thời đế quốc Aztec. Khi nói chuyện với Ðức Bà, ngài tự xưng mình là "một kẻ chẳng là gì" (a nobody), và để trả lời với Ðức Bà rằng ngài chẳng có địa vị gì đáng tín nhiệm để chuyển đạt mệnh lệnh của Ðức Bà tới Ðức Giám Mục.
Ngài là một người hăng say chăm lo làm việc tại nông trại chuyên sản xuất thảm cỏ. Ngài có một miếng đất nhỏ và ở trong một ngôi nhà nho nhỏ trên miếng đất đó. Ngài sống hạnh phúc bên người vợ hiền nhưng không có con.
Khoảng giữa năm 1524 đến 1525 ngài cùng với vợ gia nhập Giáo hội Công giáo và được Rửa tội với tên thánh là Juan Diego, và tên thánh của vợ là Maria Lucia. Ngài được Rửa tội bởi một cha thừa sai dòng Phanxicô nổi tiếng và rất đáng yêu tên là Fray Toribio de Benavente, và người thổ dân thường gọi cha với tên là "Motolinia", nghĩa là "kẻ nghèo hèn", vì ngài rất tốt lành và rất dễ mến với tất cả mọi người.
Dựa theo những nghiên cứu chính thức thủa ban đầu của Giáo hội về những sự lạ đã xảy ra, Những tài liệu về Ðức Bà Guadalupe vào năm 1666, Juan Diego là một tín đồ rất nhiệt thành, ngay cả trước khi ngài gia nhập Giáo hội Công giáo. Là một người đầy nghiêm nghị, trầm lặng và thường hãm mình đền tội và thường đi bộ từ nhà của ngài tới làng Tenochtitlan, cách xa khoảng 22 cây số, để được hướng dẫn về giáo lý.
Vợ của ngài bị bệnh và qua đời vào năm 1529. Sau đó, Juan Diego dọn nhà về ở với người chú tên là Juan Bernadino ở Tolpetlac, gần với nhà thờ ở Tlatilolco-Tenochtitlan hơn, chỉ cách khoảng 14 cây số.
Mỗi ngày thứ Bảy và Chúa Nhật, ngài đi bộ tới nhà thờ, thường đi từ sáng sớm, trước khi mặt trời mọc, để kịp tham dự Thánh Lễ và dự những giờ hướng dẫn giáo lý. Ngài đi bộ với chân không, giống như bao nhiêu người macehualli khác thuộc tầng lớp như ngài. Chỉ có những người thuộc những tầng lớp cao hơn của xã hội mới có giày hay xăng đan những loại được làm bằng sợi hay bằng da để mang, Vào những ngày lạnh giá, ngài thường mặc một chiếc áo "tilma" vải thô quấn choàng qua vai, loại vải bông thì chỉ có những người dân Aztec thuộc hạng cao cấp hơn mới có mà mặc.
Một trong những lần trên đường đi bộ tới Tenochtitlan, khoảng 3 tiếng rưỡi để đi từ làng và qua các ngọn núi, và ngài đã gặp Ðức Mẹ hiện ra vào lần thứ nhất tại một địa điểm mà ngày nay gọi là "Capilla del Cerrito", tại nơi này, Ðức Mẹ nói với ngài bằng tiếng thổ dân của ngài. Ðức Mẹ gọi ngài là "Juanito, Juan Dieguito", "Người con khiêm nhượng nhất của Ta", "người con bé mọn nhất của Ta", "người con bé nhỏ yêu dấu của Ta".
Lúc đó ngài đã 57 tuổi, chắc chắn đã là lứa tuổi đủ già đối với một người đàn ông đã trên 40 rồi.
Sau sự lạ Ðức Mẹ hiện ra tại Guadalupe, Juan Diego dọn đến ở trong một căn phòng sát với Nhà Nguyện có giữ Bức Ảnh Thánh, sau khi đã trao hết công việc làm ăn và của cải cho người chú; và ngài sống những ngày còn lại của cuộc đời để phổ biến sự lạ Ðức Mẹ hiện ra cho những người đồng hương của ngài.
Ngài qua đời vào ngày 30 tháng 5 năm 1548, hưởng thọ 74 tuổi.
Juan Diego là một người yêu mến Phép Thánh Thể, và được phép đặc biệt của Ðức Giám Mục cho phép ngài được lãnh nhận Phép Thánh Thể 3 lần trong một tuần, được nhiều hơn bình thường theo như quy định vào thời đó.
ÐTC Gioan Phaolô II ca tụng đức tin đơn sơ và việc chăm chỉ học giáo lý của Juan Diego, và đặt ngài (là người tự xưng với Ðức Mẹ: "con chỉ là một kẻ chẳng là gì, con chỉ là một sợi giây nhỏ, một chiếc thang tí hon, một mẩu đuôi, một chiếc lá") là mẫu gương của sự khiêm nhượng cho tất cả mọi người

Thứ Bảy, 23 tháng 9, 2017

Các Thánh Dành Cho Bạn Trẻ

Thánh Piô Piêtrelcina
Phanxicô Forgiône sinh ngày 25 tháng Năm năm 1887 gần thành Napôli nước Ý. Song thân ngài rất nghèo khó và rất vất vả. Từ thơ ấu, Phanxicô Forgiône đã có một lòng yêu thích cầu nguyện sâu xa và một lòng khát khao nên thánh mãnh liệt.
Khi Phanxicô Forgiône lên 10, có một linh mục dòng Phanxicô Capuxinô tới Piêtrelcina. Phanxicô bị ấn tượng bởi lòng đơn sơ và khiêm nhường của ngài. Và Phanxicô quyết tâm rằng một ngày kia cũng sẽ là một linh mục dòng Capuxinô. Để giúp cho ước mơ của con thành sự thật, thân phụ của Phanxicô đã trẩy sang nước Mỹ tìm việc làm và kiếm tiền cho Phanxicô ăn học.
Vào ngày mùng 6 tháng Giêng năm 1903, Phanxicô Forgiône gia nhập dòng Capuxinô ở Morcôn. Phanxicô nhận tên là Piô. Vào năm 1910, Piô được thụ phong linh mục. Vì sức khỏe yếu kém, các bề trên tưởng là sẽ tốt hơn nếu để Piô sống một thời gian tại quê nhà. Và Piô được chỉ định về giúp cha xứ tại giáo xứ quê nhà. Chính thời gian này cha Piô nhận được một ơn đặc biệt. Để nên giống Đức Chúa Giêsu Tử Giá hơn, Piô bắt đầu cảm thấy những dấu đinh của Chúa ẩn trong tay và chân và vết thương của lưỡi đòng trong cạnh sườn mình. Sau một thời gian, các vết thương này xuất hiện thường xuyên hơn, nhưng vẫn vô hình. Vào ngày 20 tháng Chín năm 1918, năm Dấu Thánh này tỏ lộ ra bên ngoài và kéo dài suốt 50 năm sau cho tới lúc cha Piô qua đời.
Sau bảy năm sống ở Piêtrelcina, cha Piô được gởi đến đan viện Capuxinô ở Foggia. Cha cảm thấy rất hạnh phúc vì sau cùng cha cũng được ở với các anh em tu sĩ Phanxicô. Và cộng đoàn cũng vui mừng vì có sự hiện diện của cha, bởi Piô luôn vui tính và hóm hỉnh. Cha Piô bắt đầu ban bí tích Hòa giải và chẳng bao lâu từng nhóm đông người đã kéo đến xin cha lời khuyên bảo.
Vào tháng Bảy năm 1916, các bề trên của cha Piô gởi cha tới San Giovanni Rôtônđô, một ngôi làng hẻo lánh để cha được hưởng chút yên tĩnh. Ở đây, sức khỏe của Piô được bình phục, và Piô cũng được Thiên Chúa ban cho những ơn lạ. Piô đọc được tâm hồn của người khác, thậm chí cha có thể giúp họ xưng tội bằng cách nhắc họ nhớ lại những chi tiết mà cha nghe được từ nơi Thiên Chúa. Cha Piô cũng có ơn lưỡng tại (tức khả năng hiện diện ở hai nơi khác nhau trong cùng một lúc), và năm Dấu Thánh của cha tỏa ra một mùi thơm của hoa hồng và hoa tím.
Các bề trên của cha Piô đã hỏi cha những đặc ân này là có thực hay không, vì nếu như đó là trò chơi khăm thì Piô sẽ bị cấm dâng lễ công khai và cấm giải tội. Đây quả là một thánh giá nặng đối với Piô, nhưng cha Piô đã chấp nhận nó như một dịp để được nên giống Đức Chúa Giêsu. Một thời gian sau, cha Piô lại được phép cử hành các bí tích, và một lần nữa, rất đông người lại chen chúc nhau trong nhà thờ để xem cha Piô dâng thánh lễ cũng như xếp hàng để được xưng tội với ngài. Thông thường, mỗi ngày cha Piô giải tội cho trên 100 hối nhân.
Cha Piô Piêtrelcina đã dùng hầu hết cuộc đời linh mục của ngài để ban bí tích Hòa giải và khuyên bảo cùng động viên vô số bổn đạo đến từ khắp các nơi trên thế giới. Cha đã phục vụ như vậy cho tới khi về trời ngày 21 tháng Chín năm 1968. Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã tôn cha Piô Piêtrelcina lên bậc hiển thánh năm 2002.
 Chúng ta có tin rằng trong bí tích Hòa giải chúng ta được gặp chính Đức Chúa Giêsu, Đấng biết rõ chúng ta hơn chúng ta biết ta và yêu mến chúng ta hơn chúng ta có thể yêu mến mình không? Chúng ta hãy nài xin cha thánh Piô Piêtrelcina ban ơn soi sáng để chúng ta có thể nhận thấy những chuyện xảy ra trong đời sống của mình chính là những phương thế giúp chúng ta theo sát Đức Chúa Giêsu hơn. Như thế, chúng ta sẽ lãnh nhận bí tích Hòa giải cách hiệu quả hơn.

Thứ Ba, 5 tháng 9, 2017

Khi người nghèo có Mẹ Têrêxa Calcutta

Bạn thân mến,
Bằng giờ năm ngoái 2016, Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ tại quảng trường Thánh Phêrô đã phong thánh cho Mẹ Têrêxa Calcutta. Cả thế giới vui mừng vì cuộc đời sáng ngời của Mẹ luôn hướng về người nghèo. Nơi từng con người nghèo khổ, Mẹ thấy Thiên Chúa hiện diện ở đó. Từ kinh nghiệm tuyệt vời ấy, Mẹ dành cả đời cho những số phận bần cùng nhất của xã hội. Hôm nay mừng lễ của Mẹ, chắc mỗi người muốn cảm ơn vì sứ mạng đặc biệt của Mẹ danh cho người nghèo.
Mẹ Têrêxa chào đời ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại Albania. Từ khi là con Chúa, Mẹ lúc nào cũng tràn ngập niềm vui hướng về các linh hồn. Mới 18 tuổi Mẹ nhanh chóng trở nên nữ tu thánh thiện trong nhà Dòng Lorento ở Ái Nhĩ Lan. Với khát khao nên nhà truyền giáo, Mẹ được gửi sang Ấn Độ năm 1929 và thi hành sứ mạng giảng dạy tại đây suốt 20 năm trường. Trong thời gian này, Mẹ được nhiều người biết đến như một Ma Sơ thánh thiện, vui tươi và nhiệt tâm chăm lo cho người nghèo khổ.
Rồi đến năm 1946, Mẹ được Thiên Chúa trao một sứ mạng đặc biệt vốn đi liền với Mẹ đến hết cuộc đời: “Hãy bỏ mọi sự để phục vụ Thiên Chúa nơi những người nghèo nhất trong những người nghèo.” Sau đó, các khu ổ chuột của thành phố Calcutta trở nên nhà của Mẹ. Dân nghèo quen hình ảnh một Ma Sơ mặc áo sari trắng bình dị như bao người phụ nữ trong dân làng.     
Nhờ ơn Chúa, Mẹ nhanh chóng được nhiều người chung tay trong công việc bác ái này. Những cựu học sinh trước đây Mẹ dạy cũng đến chia sẻ sứ mạng với Mẹ. Sau đó các chị em thừa sai Bác ái của Mẹ trở thành một Dòng tu thuộc giáo phận 1950 và trở thành Dòng tu thuộc giáo hoàng năm 1965. Đặc sủng của Dòng là “làm dịu cơn khát vô hạn của Chúa Giêsu vì tình yêu mến và vì các linh hồn bằng việc cứu giúp và thánh hóa những người nghèo nhất giữa những người nghèo.”
Nhanh chóng Mẹ được thế giới biết đến với tấm lòng cao thượng luôn hướng đến những người nghèo. Không chỉ vùng Ấn Độ, cộng đoàn của Mẹ có mặt ở nhiều quốc gia khác. Thế giới biết ơn Mẹ, nhân loại ngưỡng mộ Mẹ. Năm 1979 Mẹ được nhận giải Nobel hòa bình. Họ công nhận Mẹ như một chứng nhân của Chúa trong sứ mạng kiến bạo hòa bình đặc biệt nơi những người nghèo đói khổ đau. Đúng như lời Mẹ chia sẻ khi nhận bất kỳ giải thưởng nào: “Tất cả vì vinh danh Thiên Chúa và nhân danh người nghèo.”  
Ngay từ đầu, Mẹ hằng nỗ lực giúp cho những người hấp hối được chết lành. Họ được Mẹ chăm sóc chu đáo, được chết bình an và xứng đáng với nhân phẩm của mình. Mẹ cho họ được mai táng theo niềm tin của họ. Nếu như họ cả đời sống thấp hèn như những con vật, thì Mẹ giúp cho họ chết như một Thiên Thần. Mẹ gọi đó là cái chết đẹp. Dĩ nhiên Dòng của Mẹ còn chăm lo cho biết bao thành phần bần cùng khác trong xã hội. Từ người già đến con trẻ, từ chỗ yên bình cho đến vùng chiến tranh, nơi nào có người nghèo đau khổ, Mẹ đều muốn hiện diện với họ.
Bạn biết không, là con dân Nước Việt chúng ta hạnh phúc vì được đón Mẹ nhiều lần đến thăm. Đó là những kỷ niệm đẹp không chỉ cho những chị em Dòng của Mẹ mà còn mở ra hy vọng cho những người nghèo trên quê hương chúng ta. Lần cuối Mẹ sang Việt Nam và nhận được lệnh các sơ của Mẹ phải rời Việt Nam ngày 23-12-1995. Dù rất buồn nhưng Mẹ nhắn nhủ chị em: “Chúng ta hãy nhận thánh ý Chúa, tìm hiểu thánh ý Ngài muốn chúng ta làm gì”. Thế là sau này, Dòng của Mẹ lại được mở nhà tại Việt Nam.
Vì căn bệnh đau tim đột ngột, Mẹ qua đời ngày 05 tháng 09 năm 1997. Cả thế giới tiếc thương nhớ đến hình ảnh Mẹ Têrêxa như chứng nhân của lòng thương xót Chúa giữa trần gian. Cả nước Ấn Độ tổ chức quốc tang trọng thể cho Mẹ. Nhanh chóng vào ngày khánh nhật truyền giáo 2003, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Chân phức cho Mẹ Têrêsa. Rồi năm thánh lòng thương xót 2016 Đức Thánh Cha Phanxicô nâng Mẹ lên hàng hiển thánh. Trong dịp này, Đức Thánh Cha quảng diễn về cuộc đời Mẹ như thừa tác viên phân phát lòng thương xót của Thiên Chúa. Là vị thánh, nhưng ĐTC Phanxicô hay bất kỳ ai đều muốn triều mến gọi bằng Mẹ Têrêxa. Đó là tên gọi thân thương đối với mọi người, nhất là những con người lầm than đói khổ muốn được Mẹ viếng thăm.
Hôm nay đây, chúng con xin Mẹ Têrêxa trên Thiên Quốc làm mưa lòng thương xót của Chúa xuống cho trần gian. Nhất là những người bần cùng nhất của xã hội, xin Mẹ và Dòng của Mẹ luôn bên họ. Được như thế, chúng con tin rằng con người sẽ bớt khổ đau, dân nghèo sẽ bớt lầm than.
Chúng con cầu xin Mẹ Têrêxa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con! Amen.
Mừng lễ Mẹ Têrêxa Calcutta, ngày 5 tháng 9.

Chủ Nhật, 3 tháng 9, 2017

Tranh về Thánh Matthêô Tông đồ

Ngày 21 tháng 9, Giáo hội kính Thánh Matthêô Tông đồ, tác giả Tin Mừng và là Thánh Tử vì đạo. Ngày này, tuy mới chính thức được xác lập từ thế kỷ thứ VIII, nhưng trước đó rất lâu, từ thế kỷ thứ V, việc tôn kính Thánh Matthêô đã có. Hình tượng Thánh Matthêô, bởi vậy, cũng đã xuất hiện rất sớm trong icon, gắn liền với việc thờ kính này…(1)
Kể từ thời Phục hưng, tác phẩm hội họa kể lại cuộc đời và công nghiệp của vị Thánh này ngày càng nhiều. Trong đó, có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng của nhiều họa sĩ danh tiếng như Caravaggio, Hendrick Terbruggen, Reni, Rubens, Rembrandt v.v…
Tuy nhiên, nổi tiếng nhất, là bộ ba tác phẩm “Công nghiệp Thánh Matthêô” mà Caravaggio vẽ cho nhà nguyện Contarelli trong nhà thờ của cộng đoàn nói tiếng Pháp San Luigi dei Francesi, ở Rôma, theo yêu cầu của Đức Hồng Y Matteo Contarelli, trong khoảng thời gian từ 1599 đến 1602.
Ba tác phẩm về Thánh Matthêô của Caravaggio đặt liền kề trong nhà nguyện Contarelli này, đương thời, đã vô cùng nổi tiếng, đã tạo nên những ảnh hưởng lớn – mở đường cho hội họa Baroque…, và cho đến ngày nay, vẫn được xem là những đỉnh cao “vượt thời gian” của nghệ thuật Công giáo.
Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt “khảo sát” từng tác phẩm.
1. “Kêu gọi Matthêô”
“Kêu gọi Matthêô”
1599-1600
Sơn dầu trên vải, 322 x 340 cm
Caravaggio
Contarelli Chapel, San Luigi dei Francesi, Rôma
Hình ảnh trong tranh thể hiện sự kiện Chúa Giêsu cùng Thánh Phêrô vào nhà người thu thuế Lêvi (tên của Thánh Matthêô trước khi ông trở thành Tông đồ) và kêu gọi ông hãy từ bỏ tất cả mà theo mình. Trong bức tranh này, Caravaggio đã sử dụng các thủ thuật tương phản để nhấn mạnh chủ đề. Trước hết, là sự tương phản của những hình ảnh phân biệt sang, hèn trong cách nhìn nhân gian. Lêvi và các cộng sự đều ăn mặc sang trọng, đang ngồi đếm tiền, trong khi, cả Chúa Giêsu lẫn Thánh Phêrô đều đi chân đất và có dáng dấp không khác bất cứ người Do Thái nghèo hèn nào. Sự tương phản như vậy đã làm sáng tỏ ý nghĩa của sự “từ bỏ” nơi Thánh Matthêô. Tương phản tiếp theo là ánh sáng. Ánh sáng trong tranh, vừa hết sức tự nhiên, vừa như mới thoát ra từ khung cửa sổ nào đó cùng với sự xuất hiện bất chợt của Chúa. Ánh sáng nơi cánh tay Chúa Giêsu và nơi bàn tay Thánh Phêrô hướng về Lêvi, cùng ánh sáng thuận chiều như đang biểu hiện cho ý nghĩa của ơn “Kêu gọi”… Thêm nữa, theo nhiều nhà phê bình đương thời, cánh tay đưa ra của Chúa Giêsu khiến gợi nhớ đến cánh tay “ban phát sự sống” của Đức Chúa Trời trong phần tranh thể hiện cảnh tạo thành Ađam mà Michelangelo đã vẽ trên vòm nhà nguyện Sistine trước đó…(2)
“Trong dáng vẻ nghèo hèn, Thiên Chúa đã mang lại ánh sáng và sự sống!” – đó là điều có thể khái quát từ hình ảnh trong tranh
2. “Ơn linh hứng của Thánh Matthêô”
“Ơn linh hứng của Thánh Matthêô”
1602
Sơn dầu trên vải, 292 x 186 cm
Caravaggio
Contarelli Chapel, San Luigi dei Francesi, Rôma
Đây là bức tranh thứ hai mà Caravaggio phải vẽ về chủ đề này sau khi bức tranh thứ nhất đã gây nên quá nhiều tranh cãi và đã bị Đức Hồng Y Del Monte – nhà bảo trợ chính của Caravaggio ở Rôma – phản đối gay gắt. Ngay dưới đây là hình ảnh bức tranh thứ nhất đó.
“Thánh Matthêô và thiên thần”
1602
Sơn dầu trên vải, 232 x 183 cm
Caravaggio
Formerly Kaiser-Friedrich-Museum, Berlin
Đặt hai tác phẩm này bên nhau, chúng ta dễ nhận thấy, sự khác nhau trong cách nhìn nhận sự kiện Thánh Matthêô viết “Tin mừng” (và cả sự khác nhau trong quan niệm về cái đẹp, về nghệ thuật). Ở bức tranh đầu, Caravaggio muốn đặt một cách nhìn “hiện thực”. Theo ông, Thánh Matthêô là một người cục mịch, vụng về trong chữ nghĩa. Ông không thể tự mình viết “Tin mừng”. Ông đã viết “Tin mừng” dưới sự cầm tay – cũng không kém phần chật vật – của Thiên thần. Bức tranh bị cho là đã tước đoạt mất “thần tính” của vị Thánh. Thậm chí bị cho là báng bổ, và đã bị từ chối. (Bức tranh, sau đó, được một chủ ngân hàng giàu có tên Vincenzo Giustiniani mua lại và đưa về bảo tàng Kaiser Friedrich ở Berlin, Đức. Đến cuối chiến tranh thế giới lần thứ II, nó đã bị phá hủy hoàn toàn. Bởi vậy mà ngày nay, chúng ta chỉ còn được nhìn thấy qua tấm ảnh đen trắng này…).
Caravaggio đã miễn cưỡng vẽ bức tranh thứ hai. Vẽ theo cách truyền thống – thể hiện Thánh Matthêô như một bậc cao minh đang ngẩng cao đầu đón nhận thông điệp từ Thiên sứ đến từ trời cao. Tuy được vẽ một cách miễn cưỡng, nhưng bức tranh này, dù sao cũng là tác phẩm của một thiên tài hội họa. Bởi vậy, mà ngay từ khi mới hoàn thành, tác phẩm đã được tán thưởng nhiệt liệt. Peter Robb, người viết tiểu sử Caravaggio, đã viết: “Đức Hồng Y Del Monte đã vô cùng hài lòng”.
Trong sử sách nghệ thuật về sau, các nhà nghiên cứu cũng đã nói nhiều về hai tác phẩm này. Theo E.H. Gombrich, người đã nhìn thấy cả hai tác phẩm gốc cho rằng: “Cả hai, tuy đặt ở hai cách nhìn khác nhau, nhưng cả hai, đều là những tuyệt tác. Nó khiến người xem phải tự hiểu, trước tác phẩm nghệ thuật, cần hơn hết là một cái nhìn cởi mở. Bởi, chỉ với sự cởi mở, mới có thể nhận thấy và có được niềm vui trước những cái đẹp khác nhau…”
3. “Thánh Matthêô tử vì đạo”
“Thánh Matthêô tử vì đạo”
1599-1600
Sơn dầu trên vải, 323 x 343 cm
Caravaggio
Contarelli Chapel, San Luigi dei Francesi, Rôma
Chúng ta đã biết, Thánh Matthêô đã bị giết chết theo lệnh của ông vua độc ác Lusted ở Ethiopia trong khi Ngài đang cử hành Thánh Lễ tại bàn thờ. Bức tranh diễn tả cảnh náo động của cuộc giết chóc đó. Thánh Matthêô đã ngã xuống và kẻ giết người chuẩn bị ra tay. Những người chung quanh hốt hoảng bỏ chạy. Chỉ có Thánh Matthêô như đã sẵn sàng đón nhận cái chết “vinh danh Thiên Chúa”. Cánh tay mà kẻ giết người đang cầm chặt của Ngài như đang vươn lên đón nhận cành cọ Thiên sứ mang xuống từ trên cao… Cũng theo người viết tiểu sử Caravaggio là Peter Robb, Đức Hồng Y Del Monte – nhà bảo trợ chính của Caravaggio ở Rôma – đã hết lời khen ngợi tác phẩm: “Sự tài giỏi của họa sĩ, là đã thể hiện được trong tranh, không phải là khoảnh khắc của sự sợ hãi, mà là khoảnh khắc của niềm vui. Đó là biểu hiện tuyệt vời của đức tin và lòng dâng hiến”Xin nói thêm đôi dòng về ý nghĩa của cành cọ: theo truyền thống văn hóa Hy Lạp có từ thời cổ đại, cành cọ, là biểu tượng sự chiến thắng của sự sống trước cái chết, và theo truyền thống Công giáo Tây phương, cành cọ còn là biểu tượng của Thiên đường…
Còn nhiều điều có thể nói về bộ ba tác phẩm này của Caravaggio. Chẳng hạn như những đóng góp mới mẻ trong sự phát triển của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong tác phẩm. Chẳng hạn như tầm ảnh hưởng của chúng lên các nghệ sĩ đương thời. Và, vô số những giai thoại có liên quan. V.v… Tuy nhiên đây là những vấn đề nằm ngoài chủ định của bài viết này. Tôi sẽ quay lại, trong một bài viết khác, bàn về sự vận động phát triển của nghệ thuật Công giáo.
Nguyên Hưng
Ghi chú:
(1) Một icon tiêu biểu thể hiện Thánh Matthêô
(2) Cảnh tạo thành Ađam mà Michelangelo đã vẽ trên vòm nhà nguyện Sistine

Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2017

Đam Mê Của Thánh Augustino


 “Mỗi vị Thánh có một quá khứ, mỗi tội nhân có một tương lai”. Câu nói này được áp dụng triệt để cho cuộc đời của Thánh Augustino, một con người sống với nhiều nỗi đam mê. Có những đam mê đã kéo theo một đời sống lệch lạc và truỵ lạc, cũng có những đam mê giúp ngài sống thật và sống thánh. Tất cả được bộc bạch trong cuốn Tự Thuật, một trước tác của ngài.
Lược qua tác phẩm, chúng ta ghi nhận hai điểm nổi bật nơi đam mê của thánh nhân: danh vọng và sắc dục. Thông thường, chỉ có những đau khổ hay mất mát lớn lao cách nào đó mới khiến con người giảm trừ hay chấm dứt đam mê quá đà hoặc bất chính; thánh nhân cũng không phải trường hợp ngoại lệ. Nhưng với ơn Chúa, ngài đã “lột xác” trải qua một cuộc biến đổi ngoạn mục mà đó cũng là một phần thao thức ngài muốn trình bày trong tác phẩm Tự thú này.
Trước tiên, chúng ta bàn đến đam mê danh vọng nơi ngài. Đam mê này được chính thánh Augustino nhìn nhận, thích trổi vượt hơn người khác, vì vậy vinh dự của ngài là làm đẹp lòng người khác[i] . Thật ra, nếu ngài có trí khôn và tài giỏi thì việc trổi vượt hơn người hay được người khác khen ngợi, đó là điều chính đáng. Nhưng ngài đã lừa dối giáo sư, giấu giếm cha mẹ vì ham chơi, say mê những vở kịch nhảm nhí, điên cuồng; bắt chước các trình diễn đó rồi sinh ra kiêu hãnh, tìm tiếng khen… Chúng ta nghe chính ngài tự thú: “Về các loại cám dỗ khác, còn có một cách nào đó dò xét được mình, còn về loại này (đam mê danh vọng), thì hầu như không có cách nào cả”[ii]. Nói như thế, ngài tỏ ra bất lực nhưng kỳ thực với ơn Chúa, ngài nỗ lực rất nhiều. Ngài ý thức đam mê này quá quy về bản thân nên ngài hướng ra tha nhân, ngài viết: “Con thấy rõ là các tiếng khen của người ta đã làm cho con chăm chú đến lợi ích của con”[iii] . Điều này được chứng thực qua việc ngài dùng tài hùng biện để thuyết phục người khác tìm đến chân lý.
Quả thật, với vinh dự sinh viên thủ khoa môn này, ngài nhanh chóng trở thành nhà hùng biện. Đam mê này đã khiến ngài tìm đến Cicéron là tác giả cuốn Hortensius. Chính tác phẩm này làm thay đổi nguyện vọng và ước muốn của thánh nhân, muốn quay về sự khôn ngoan bất tử. Bắt đầu ngài tìm đọc Kinh Thánh nhưng cảm giác vô vị. Có thể nói, đây chỉ là một cảm xúc nhất thời vụt tắt. Nhưng dù sao, ngài cũng biểu hiện một cảm thức đam mê đi tìm Chân, Thiện, Mỹ.
Đam mê chân lý là một điều đáng ước ao nhưng chân lý là một thực tại không dễ thủ đắc vì lý trí đã ra tối tăm vì “vết thương tội lỗi”. Một khi lý trí sai lầm, chân lý ấy biến thành một loại nguỵ biện. Do đam mê hiếu tri đi tìm chân lý, thánh Augustino vương phải bè rối mà ngài ví như người có cặp mắt mù tối vướng phải cạm bẫy giăng trên đường. Bè rối ấy âm mưu đẩy khoa học lên đến đỉnh điểm để loại tôn giáo khỏi đời sống con người. Sự thể càng thêm trầm trọng khi một Giám Mục tên là Faustus cũng theo bè rối này. Với tài hùng biện và lối nói dí dỏm đã làm say mê thánh nhân khiến ngài càng xác tín về những “chân lý” sai lầm; dầu là những gì thánh nhân tiếp xúc chỉ là nguỵ biện. Nhưng điều tệ hại là một khi nhổ hết cỏ mọc hoang, mảnh đất tâm hồn trở nên trống rỗng vì không có một giáo lý lành mạnh khác trồng vào cho đến khi ngài gặp được Giám mục Ambrôsiô, từ những bài giảng hùng hồn và không kém phần hùng biện của Đức Cha này, ngài đã nhận ra được chân lý mình phải tin nhận.
Nhưng cuộc trở về của ngài không phải một sớm một chiều. Chúng ta nghe ngài tâm sự: “Sự xấu kinh niên có sức mạnh trên con hơn là sự lành mới mẻ đối với con. Cái giây phút mà con sẽ được thay đổi càng gần tới, thì làm cho con càng sợ hãi; nó không làm cho con lùi bước, cũng chẳng đổi chiều, nhưng là lưỡng lự” . Đây là một cuộc chiến giằng co nội tâm nhưng “giờ Chúa đã đến”. Ngài tỏ ý muốn bằng chính dấu chỉ bên ngoài. Ngài viết: “Việc dạy học quá vất vả đã làm cho phổi con yếu đi, con khó thở và sự đau ngực chứng tỏ có vết thương” [iv]. Nỗi đau này đồng nghĩa với việc từ bỏ nỗi đam mê hùng biện là mối cản trở lớn khiến ngài không thể hợp nhất với Giáo Hội. Thêm một dấu lạ khác nữa, “Chúa hành hạ con với cái bệnh đau răng nguy kịch đến nỗi làm cho con không nói được nữa. Trong lòng con nảy ra ý nghĩ là kêu gọi các bạn có mặt tại nhà, cầu xin Chúa cho con… Nhưng chúng con vừa quỳ gối để khẩn khoản cầu xin thì cơn đau biến mất…Và tự đáy lòng, con cảm thấy một sự khuyến cáo của Chúa và vui vẻ trong đức tin”[v].
Từ những lời tự thuật trên, chúng ta có thể xác tín rằng đức tin là hồng ân Chúa ban và “giờ Chúa đến” thì không ai có thể ngăn cản được! Vì ý muốn của Chúa là ý muốn quyền năng, nghĩa là muốn gì thì được vậy !
Hành trình đi đến đức tin của thánh nhân còn nếm trải một nỗi đam mê chết người là đam mê sắc dục. Có thể nói, nó chi phối toàn bộ cuộc sống của ngài. Augustino đã tự thú: “Con không biết phân biệt sự sáng sủa của tình yêu và sự tối tăm của nhục dục. Cả hai tình yêu đều bốc cháy lẫn lộn trong con, lôi kéo tuổi xuân khờ dại của con qua những ghềnh dốc đam mê và dìm con xuống vực thẳm các nết xấu… Sự dâm đãng đã làm con dao động và xiêu té, phung phí và tiêu tan sức lực” [vi]. Ngài và các bạn của ngài ganh đua nhau không phải tập tành nhân đức hay nghiên cứu tri thức mà lại so kè xem ai làm chuyện xấu xa đồi bại hơn. Có lúc, vì muốn hơn chúng bạn, ngài phải nói dối, ngài tâm sự: “Con sợ bị khinh thị vì vô tội, bị coi hèn hạ hơn vì trong sạch”[vii].
Ngài mô tả đam mê nhục dục: “Chúng xuất hiện lờ mờ trước mặt khi con tỉnh thức, nhưng trong giấc ngủ, chúng gợi lên không những cảm giác thú vui, mà còn sự ưng thuận và như có cả hành động nữa”[viii]. Ở đây, có sự can dự của tiềm thức; những hình ảnh đập vào mắt, chúng ám ảnh toàn diện con người nên dịp tội và ưng thuận là khoảng cách mong manh. Đến nỗi, khi nghĩ về những điều này, ngài thốt lên: “Trước thánh nhan Chúa, con là một bí mật cho con và đó chính là sự yếu đuối của con” [ix]. Quả thật, đam mê nào cũng đi kèm với khoái lạc, mà đam mê nhục dục chi phối toàn bộ sinh hoạt con người nên khi muốn từ bỏ ngay đối tượng đam mê, khoái lạc lại khuấy động, cảm xúc trào dâng, giác quan dễ tìm lại cảm giác cũ. Với những nguy hiểm rình chờ, ngài chỉ còn cách kêu cầu Chúa: “Con đã nói cho Chúa nhân lành biết hiện trạng yếu đuối của con: con vui mừng mà run sợ về những ơn Chúa đã ban, con khóc lóc về những  thiếu sót trong con, con hy vọng Chúa sẽ hoàn tất nơi con lòng thương xót của Chúa, cho tới sự bình an trọn vẹn, mà mọi quan năng bề trong bề ngoài của con được hưởng nơi Chúa”[x].
Chúng ta vừa lược qua những đam mê của thánh Augustino, xem ra rất con người xác thịt nhưng nhờ ơn Chúa, ngài đã chuyển hướng biến nó thành phương tiện mang ơn cứu độ. Chắc hẳn, đây sẽ là sứ điệp về niềm hy vọng cho mỗi chúng ta, rằng: chúng ta vẫn sống hoài nỗi đam mê mà không làm nguôi ngoai khát vọng nên thánh. Một hành trình đến đức tin, một hành trình dài nên thánh đòi buộc ngài phải xét mình luôn, ngài tâm sự: “Con thường xuyên kiểm điểm về cái yếu đuối tội lỗi của con dưới những hình thức đam mê”[xi]. Và xác tín như thánh Phao lô: chính lúc tôi yếu là lúc tôi mạnh.
Phải chăng chính khi ngài trải qua những đêm tối lầm lạc, đam mê nhiều phen mà Giáo hội đã có một hướng nhìn đúng đắn và cởi mở từ học thuyết đam mê của ngài ?
EYMARD An Mai Đỗ O.Cist.
(Bài viết được tác giả gửi đến dongten.net)
[i] X.Thánh Augustino, Tự Thuật, QI, XIX, 30.
[ii] Sđd, QX, XXXVII, 60.
[iii] Sđd, Q X, XXXVII, 62.
[iv] Sđd, Q IX, II, 4.
[v] Sđd, Q IX, IV, 12.
[vi] Sđd, Q II,II.
[vii] Sđd, Q II, III,7.
[viii] Sđd, Q X, XXX, 4.
[ix] Sđd, Q X, XXXIV, 50.
[x] Sđd, Q X, XXX, 42.
[xi] Sđd, Q X, XLI, 66.

Thứ Bảy, 12 tháng 8, 2017

Thư gửi Trinh nữ Clara! (11-08)

Chị thánh kính mến,
Thành phố Assisi bên nước Ý chưa hết xôn xao bàn bán về một chàng thanh niên từ bỏ gia đình để chọn sống trong đời dâng hiến. Bằng đời sống khó nghèo, thánh Phanxicô Assisi xa lánh bạn bè, gia đình, chỉ thích tìm nơi thanh vắng để suy tư, cầu nguyện và lắng nghe sứ mạng Chúa trao. Sau đó cả dân thành thêm ngỡ ngàng một lần nữa về một cô thiếu nữ là chị Clara cũng trọn con đường dâng hiến ở độ tuổi thanh xuân. Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ của chị thánh, em có dịp đọc lại những trang sử thật dễ thương thánh thiện của chị.
Từ khi mở mắt chào đời ngày 16 tháng 7 năm 1194, người ta nói chị chẳng bao giờ khóc, nhưng luôn với nụ cười trên môi. Bởi đó đời sống của chị tỏa nét đẹp của một cô thiếu nữ khiến gia đình chị nhanh chóng nghĩ đến chuyện hôn nhân. Tuy nhiên, tâm hồn chị lúc nào cũng hướng về Chúa, người tình đặc biệt của chị. Từ sớm chị đã âm thầm chọn đời sống nhiệm nhặt để sám hối những tội lỗi của mình. Nhất là khi chị được nghe đây đó về câu chuyện của chàng Phanxicô, nghe chính lời giảng thánh thiện của thánh nhân, chị quyết định dâng mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa.
Dĩ nhiên gia đình chị không đồng ý. Là tiểu thư xinh đẹp đài các trong một gia đình quyền quý, gia đình hy vọng chị có tương lai tươi sáng với vị hôn phu môn đăng hậu đối. Tuy nhiên, Thiên Chúa khóe đổi hướng đời chị. Trong khi gia đình phản đối, chị đã gặp thánh Phanxicô rồi xuống tóc đi tu, mặc áo dòng nâu thô kệch. Sau đó chị được gửi vào sống với các nữ tu dòng Bênêđíctô. Nhanh chóng nhiều chị em phụ nữ khác mộ mến lối sống của chị và họ cùng với chị thành lập một cộng đoàn. Cộng đoàn nhỏ bé ấy dần dà được biết đến với tên Các Chị Em Hèn Mọn. Chị biết không, ở Việt Nam cũng có Dòng chị hiện diện nữa (Dòng Kín Clara), đối diện với Dòng Anh Em Hèn Mọn.
Thời ấy người ta thán phục đến khó tin về lối sống nhiệm nhặt của Hội Dòng chị. Dưới sự hướng dẫn của thánh Phanxicô, Dòng chị sống kỷ luật và chay tịnh khắc khổ theo đúng như Tin mừng đòi hỏi. Thấy thế thánh Phanxicô nhắc chị cần điều chỉnh lối sống khắt nghe này. Ngài nói: “Cơ thể chúng ta không được làm bằng đồng.” Sau này khi Đức Giáo Hoàng thuyết phục chị giảm bớt khắc khổ, chị vẫn cương quyết: “Con cần được tha thứ tội lỗi, nhưng con không muốn miễn giảm trách nhiệm theo Đức Giêsu.”
Là người nữ thánh thiện, chị không cần điểm trang lộng lẫy, không vòng vàng trang sức. Với chị lúc này, những thứ ấy không đẹp bằng chiếc áo dòng xinh xắn, không quý bằng chiếc lúp đội trên đầu. Nhờ cuộc sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, chị lúc nào cũng trở nên người nữ tu hiền hòa dễ mến, dịu dàng đạo hạnh trước Thiên Chúa và người ta. Phải chăng vì thế mà nhanh chóng chị được thánh Phanxicô đề nghị làm bề trên ở tuổi 21. Là bề trên, chị tiếp tục giúp chị em trong Dòng tận tụy cầu nguyện, chăm sóc bệnh nhân và thi hành việc bác ái cho người nghèo và người bị bỏ rơi.
Chúng em tin rằng nhờ cuộc sống thánh thiện khó nghèo ấy mà cuộc đời chị luôn được Chúa ở cùng, hội Dòng chị luôn được Chúa yêu thương. Còn nhớ năm 1234 quân đội tấn công Assisi, đốt phá nhà cửa và tàn sát đàn bà con trẻ. Khi lính tráng đột nhập nhà Dòng, dù đau nặng nhưng chị cố gắng quỳ trước cổng với Mình Thánh Chúa trên tay mà cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để những trinh nữ của Chúa rơi vào tay người vô đạo. Chúa có nhiệm vụ phải cứu. Con đã lấy tình yêu Chúa như sữa mà nuôi dưỡng chị em, nhưng trường hợp này thì con hoàn toàn bất lực, không thể làm gì hơn được.” Và Thiên Chúa không quên đoái thương đến thỉnh cầu của chị: “Ta sẽ luôn gìn giữ họ.” Lúc ấy quân lính sợ hãi chạy toán loạn và cả Thành được bình an.
Em xúc động nghe lại lời chia sẻ của chị: “Tất cả cho Chúa, tất cả vì phần rỗi các linh hồn.” Bởi đó cả cuộc đời chị và các chị em trong Dòng không ngừng theo đuổi lý tưởng ấy. Sau thời gian dài 40 năm làm bề trên, dù nhiều năm trong đau bệnh, lúc nào chị cũng vui vẻ với các chị em trong Dòng, lúc nào chị cũng tin yêu nơi Chúa Giêsu. Ngày 11 tháng 8 năm 1253, nhà Dòng và nhiều người thương xót khi nghe chị xa lìa thế gian để về Thiên Quốc. Rồi với những điều phi thường chị làm vì lòng yêu mến Thiên Chúa, hai năm sau đó Đức Giáo Hoàng Alexandre IV phong thánh cho chị. Đồng thời ngài đặt chị lên hàng các thánh đồng trinh.    
Mừng lễ chị, chúng em ước mong thời đại hôm nay cũng có nhiều bạn trẻ dám dấn thân trong đời dâng hiến. Chúng em cầu nguyện cho Hội Dòng của chị luôn có nhiều chị em bước theo dấu chân thánh thiện của chị. Mừng chị là trinh nữ khôn ngoan đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi. Xin chị cầu nguyện cho từng người chúng em biết vui tươi sống tinh thần khó nghèo, dám theo chân Đức Giêsu trong mọi biến cố của cuộc đời, chị nhé.
Mừng lễ Thánh Clara, Trinh nữ, ngày 11 tháng 08


****************************************************************************
Xem them.

Làm sao các Thánh Sử biết câu chuyện ở Vườn Dầu?

Khi Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trong Vườn Dầu, chỉ có một mình Đức Giêsu ở đó thôi. Bên cạnh Ngài không có ai cả. Các môn đệ thì ngủ say sưa. Vậy thì làm sao các Thánh Sử  biết được Đức Giêsu đã nói gì, làm gì mà ghi lại trong sách Tin Mừng?
Chào bạn,
Câu hỏi của bạn rất hay. Hẳn là bạn đọc Tin Mừng rất kỹ mới phát hiện ra điều này. Câu hỏi của bạn xoay quanh tính khả tín của đoạn Tin Mừng liên quan đến câu chuyện Đức Giêsu cầu nguyện ở Vườn Dầu trước khi bước vào cuộc Thương Khó. Hay nói cách khác, liệu những gì Thánh Sử mô tả liên quan đến đêm đó là có thực không, có đáng tin không, vì rõ ràng ngoài Đức Giêsu ra, chẳng ai chứng kiến cả; liệu rằng các Thánh Sử có “bịa” ra câu chuyện này không?
Theo Tin Mừng, sau khi dùng bữa tối, Đức Giêsu cùng các ông lên núi Ô-liu, gọi là vườn Giêtsemani. Sau đó, Đức Giêsu và ba môn đệ yêu dấu (Phê-rô, Giacobe và Gioan) tách riêng ra khỏi nhóm còn lại (x.Lc 22,40-41; Mt 26,36-37; Mc 14,32-33). Lúc này, Đức Giêsu cảm thấy buồn rầu xao xuyến và chia sẻ với ba ông này: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được.” Sau đó, Người đi xa hơn một chút để cầu nguyện với Chúa Cha. Trong lúc này, các môn đệ đã ngủ say sưa, chẳng biết gì, đến độ sau khi cầu nguyện xong Đức Giêsu đã gọi các ông dậy và trách: “Anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?” Người lại đi riêng ra để cầu nguyện lần nữa. Khi trở lại thì Người thấy các ông vẫn còn ngủ. Lần này, Người để mặc các ông ngủ mà đi cầu nguyện lần thứ ba. Sau đó, Người quay lại, thấy các ông vẫn còn ngủ thì đánh thức các ông dậy vì Người biết rằng giờ của Người sắp đến. Ngay sau đó, Giu-đa dẫn quân lính đến. Đức Giêsu bị bắt và dẫn đi. Trong các thánh sử viết Tin Mừng, không có người nào đến gần Đức Giêsu vào thời gian này cả. Chỉ có Gioan là một trong ba người được Đức Giêsu đưa đi riêng, nhưng Tin Mừng của ông lại không thuật lại chi tiết này. Thế thì, dựa vào đâu mà Mathêu, Marco và Luca biết được chi tiết này mà ghi lại trong Tin Mừng của mình?
Có người ngay lập tức trả lời rằng “do Thánh Thần linh hứng vì Kinh Thánh được viết dưới sự soi sáng của Thánh Thần mà”. Nhưng Thánh Thần không linh hứng theo kiểu đọc lại để Thánh Sử viết, như kiểu ta đọc chính tả. Thánh Thần gợi hứng từ những gì Thánh Sử biết và tìm tòi. Bởi thế, Thánh Sử sẽ không thể nào viết lại Tin Mừng nếu không có một căn cứ mang tính lịch sử nào đó. Thật ra thì không có một sử liệu chắc chắn nào cho chúng ta biết cách chính xác. Tuy nhiên, dựa trên những gì có được, chúng ta có quyền đưa ra một vài phỏng đoán. Điều đầu tiên có thể được nói đến chính là việc Đức Giêsu đã kể lại điều này sau khi Ngài đã phục sinh. Đây là điều ta có thể đoán được. Rất có thể trong những lần trò chuyện sau phục sinh, Đức Giêsu đã chia sẻ cho các môn đệ của mình biết về cuộc chiến thiêng liêng mà Ngài đã trải qua trong Vườn Dầu. Nhờ đó mà các ông có chất liệu để viết lại Tin Mừng. Dĩ nhiên là các Thánh Sử đã viết lại dưới sự soi sáng của Thánh Linh để câu chuyện này không đơn thuần chỉ là lịch sử nhưng còn mang dụng ý thần học nữa.
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể phỏng đoán theo hướng khác. Tin Mừng đầu tiên được viết ra là Tin Mừng Marco. Tin Mừng Mathêu và Luca được cho là đã dựa vào Tin Mừng Marco để viết. Theo tương truyền, Marco là môn đệ của Phêrô. Phêrô lại là một trong ba chứng nhân tại Vườn Dầu. Ít ra, Marco cũng có thể biết được đôi điều qua lời kể của Phêrô trước khi viết Tin Mừng của mình. Tin Mừng thuật lại rằng, sau lời cầu nguyện lần thứ hai của Đức Giêsu, Ngài “quay lại, thấy các ông đang ngủ, liền nói với ông Phêrô” (x.Mt 26,40). Ta không biết các môn đệ khác lúc đó ngủ hay thức, nhưng hẳn là Phêrô phải tỉnh giấc thì Đức Giêsu mới có thể nói với ông được. Có lẽ sau này, khi nhìn lại kinh nghiệm vào đêm hôm đó, Phêrô có thể đoán được là Thầy mình đang phải trải qua những giây phút kinh khủng như thế nào, rằng Ngài đang phải chiến đấu ra sao trước giờ phút sinh tử này. Những biểu hiện về sự buồn phiền, lo lắng và đấu tranh của Đức Giêsu đã có trước đó, ngay tại bàn tiệc cuối cùng. Qua những biểu hiện đó, Phêrô có thể biết chắc rằng Thầy của mình vào giờ phút đó hẳn là đang cầu nguyện liên lỉ, và với thói quen, Phêrô cũng biết rằng Giêsu chỉ có thể chạy đến với Cha trong những lúc đau khổ cùng cực, chứ không thể làm điều gì khác. Trong cuộc trò chuyện với Cha, Giêsu chia sẻ nỗi buồn phiền của mình nhưng vẫn một lòng vâng theo những gì Cha để cho xảy đến với mình. Cuộc Thương Khó mà Giêsu trải qua sau đó đã chứng minh điều này. Bởi thế, tính khả tín của trình thuật liên quan đến việc Đức Giêsu cầu nguyện một mình với Cha trong Vườn Dầu không phải là không có căn cứ.
Trong Kinh Thánh, cũng có nhiều sự kiện khiến ta có thể đặt vấn đề tương tự. Ví dụ như trình thuật về việc Đức Giêsu chịu cám dỗ hay chuyện giấc mơ của Giuse hay của các đạo sĩ đến viếng Hài Nhi Giêsu. Về mặt sử tính, ta có quyền phỏng đoán rằng chính các đương sự này đã kể lại kinh nghiệm mà mình trải qua, hoặc họ đã có biểu hiện gì đó khiến các nhân chứng đi đến kết luận này. Đức Giêsu có thể đã kể lại kinh nghiệm bị cám dỗ của mình cho các môn đệ hoặc ít ra, Ngài đã biểu lộ kinh nghiệm này trong suốt đời sống của mình và các ông đã nhận ra điều đó. Tương tự, có thể Thánh Giuse đã chia sẻ câu chuyện được báo mộng của mình với Đức Maria và Maria đã chia sẻ nó cho các môn đệ; các đạo sĩ có thể đã chia sẻ hành trình và dự tính của mình cho Maria và Giuse, làm phong phú hơn kinh nghiệm “suy đi nghĩ lại trong lòng” của Mẹ.
Nói tóm lại, không quá khó để chúng ta truy nguyên về tính chân thực của các trình thuật Tin Mừng qua những phỏng đoán. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải luôn ý thức và tin rằng những gì mà Tin Mừng viết ra đều không có hàm ý lừa dối ta điều gì. Nếu có sự khác biệt một chút về mặt dữ kiện và thời gian thì đó là do dụng ý thần học mà các Thánh Sử nói tới không giống nhau, hoặc thậm chí là có chút sai lầm trong khả năng tri thức giới hạn của Thánh Sử. Thiên Chúa đã làm người và bị giới hạn trong vật chất thì chính Lời Chúa cũng phải hạ mình, chịu giới hạn trong khả năng của con người. Nhưng tính siêu việt của Lời Chúa hàm chứa trong Kinh Thánh không lệ thuộc vào những tiểu tiết này. Khi đọc Kinh Thánh, điều quan trọng là ta có “nghe” được những Lời ấy muốn nói gì với tôi, ngay lúc này và bây giờ không. Bởi thế, thật quý giá nếu bạn không chỉ dừng lại ở việc xác định tính khả tín của trình thuật trong Vườn Dầu, nhưng còn để lòng lắng lại, xem thử đoạn Tin Mừng nói gì với bạn, đụng chạm đến bạn thế nào trong đời sống của bạn, vào đúng khoảnh khắc này đây.
Thân ái,
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Thứ Năm, 10 tháng 8, 2017

“Chúng tôi đã sống một ngày thật sự kỳ lạ”

Nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày Thánh Edith Stein qua đời, báo Osservatore Romano ấn bản tiếng Ý ngày thứ ba 8 tháng 8 - 2017 vinh danh Thánh Nữ và tất cả những người cùng chịu chung số phận giống Thánh Edith ở Hà Lan.
Đi viếng thăm những nơi cuối cùng Thánh Edith đã đi qua (tu viện Dòng Kín Cát Minh Echt, Hà Lan, trại tập trung Westerbork, Ba Lan), tác giả Ferdinando Cancelli nhường lời cho bà Etty Hillesum, người có mặt ở Westerbork cùng thời gian với Thánh Edith, bà viết: “Chúng tôi sống một ngày thật kỳ lạ. Một chuyến xe chở đến cho chúng tôi những người công giáo do thái hay người do thái công giáo, các nam nữ tu sĩ mang ngôi sao vàng trên áo dòng của họ”.
Echt, Maastricht, Amersfoort, Westerbork, Birkenau. Giữa vụ bắt chiều 2 tháng 8 và cái chết trong phòng hơi ngạt vô danh ở Birkenau, chỉ bảy ngày trôi qua: trong vòng một tuần, cách đây 75 năm, chấm dứt số mệnh của các nữ tu Rosa và Edith Stein.
”Đi, Chúng ta đi vì dân tộc chúng ta”, Edith an ủi chị Rosa của mình khi chị khóc vì phải rời tu viện Echt, Hà Lan. Các nhân chứng nói có một đám đông nhỏ, của một vài người chống đối dù chiếc xe của Mật vụ Đức (Gestapo) cẩn thận không chờ hai nữ tu trước cửa tu viện nhưng ở góc đường Peijerstraat, cách đó khoảng một trăm mét. Chỉ một lát sau, cánh cửa khép lại trên đời sống của hai phụ nữ vô tội.
Tu viện Cát Minh Echt vẫn vậy: mặt tiền ảm đạm bằng gạch đỏ, một cổng nhỏ, lối vào nhà thờ ở đường Bovensestraat, nhiều cửa hàng hiện đại chỉ che phần tường nhỏ của cảnh cũ. Trại chuyển tiếp Amersfoort và trại Westerbork thì xa Maastricht và Echt, về phía đông-bắc Hà Lan, mất hút trong vùng kênh và nước của một ngày mùa hè Hà Lan.
Ngày 4 tháng 8 - 1942, Edith và Rosa, cùng nhiều người do thái khác đến Westerbork. Ngày nay vẫn còn di tích của trại bên trái cổng vào, người ta còn thấy căn nhà của bộ chỉ huy: một biệt thự nhỏ, bây giờ khép kín trong một khung kiếng khổng lồ. Các màn của tầng một được kéo xuống, bất động, sầu thảm, đàng sau các khung kính là nơi các sĩ quan chỉ huy đã liếc một cái nhìn lạnh lùng trên tấn thảm kịch không tả được của bao nhiêu cuộc đời bị đổ nhào.
Chúng tôi nghĩ, khung kiếng có che chở được căn nhà hay che người nhìn nó không? Thực tế, có thể nào người ta chịu được cái nhìn trực tiếp, đàng sau các bức màn, bao nhiêu là chuẫn mực trước một hố thẳm đau khổ như vậy không?
Và rồi còn cây cối: chúng tôi bồi hồi xúc động nhìn các cây sồi, cây ti-dơn, cây bu-lô vươn cao khắp nơi trong vùng lân cận. Chúng mới thật là các nhân chứng trực tiếp cuối cùng: trong những ngày này, cách đây 75 năm, rất nhiều người có mặt khi Rosa và Edith chờ để lên chuyến xe lửa đưa họ đến một cõi chết ở xa.
Chúng tôi đi bộ rất gần trại và nghĩ đến giây phút khủng khiếp đó: sự đen tối hé đàng sau cửa sổ căn nhà của bộ chỉ huy, chút bã nhợt nhạt của bóng tối bao phủ thời thạch thảo của vùng Drenthe này.
“Chúng tôi sống một ngày thật kỳ lạ. Etty Hillesum viết, bà ở Westerbork vào tháng 8 này để giúp những người chuyển tiếp đến đây. Một chuyến xe chở đến cho chúng tôi những người công giáo do thái hay người do thái công giáo, nam nữ tu sĩ mang ngôi sao vàng trên áo dòng của họ. Tôi còn nhớ hai anh em trẻ sinh đôi, khuôn mặt đẹp nâu nâu gợi nhớ các khu gettô của người do thái, ánh mắt nhìn mang nét thanh thản trẻ thơ dưới mũ choàng của họ, họ kể một cách đáng yêu, hơi ngạc nhiên một chút, là người ta vừa bắt họ lúc bốn giờ rưỡi sáng và ở Amersfoort, người ta cho họ ăn bắp cải tím ( …). Hillesum viết tiếp, và trên tất cả là tiếng gõ lách cách không ngừng của một loạt máy chữ: một hệ thống làm việc quan liêu ( …). Sau đó có người kể cho tôi nghe, cũng chiều hôm đó, họ thấy một nhóm nữ tu đi chầm chậm trong bóng đêm giữa hai lán đen tối, họ vừa đi vừa lần chuỗi, không lo ra, như thử họ ở trong nhà tu kín của họ. Etty Hillesum kết thúc, tôi cũng gặp hai nữ tu thuộc một gia đình do thái rất chính thống, giàu, có học ở Breslau, họ mang ngôi sao vàng thêu trên áo dòng của mình”.
Ngày 9 tháng 8 – 1942, sau hai ngày đi đường kinh khủng, Rosa và Edith Stein biến mất cùng với hàng ngàn người khác trong vực thẳm ở Birkenau.

Kỷ niệm 75 năm ngày Thánh Edith Stein qua đời


Ngày 9 tháng 8 năm 1942, chính xác 75 năm ngày Thánh Edith Stein qua đời ở trại tập trung Auschwitz, Ba Lan.
Ngày 8 tháng 8-2017, trong ấn bản báo Osservatore Romanotiếng Ý, ký giả Cristiana Dobner đưa ra “ba nơi, ba ngày” của người phụ nữ can đảm này, người từ chối được giúp để trốn thoát và đã khẳng định: “Thế giới được làm bởi những chuyện nghịch lý ... Nhưng chung cuộc sẽ không được làm bởi các chuyện nghịch lý này. Còn lại chỉ là tình yêu cao cả. Làm sao thế giới có thể khác đi được?”
Các giai đoạn cuối cùng của đời sống Thánh Edith Stein được tóm vào ba địa danh và ba ngày. 
Amersfoot, ngày 2 tháng 8 - 1942: người tài xế của chiếc xe xung kích trên đó Edit và chị Rosa của mình bị cưỡng bức lên xe, trong các cuộc trả đũa, họ bị trục xuất ra khỏi tu viện sau lá thư của các giám mục Hà Lan tố cáo chế độ nazi. Chiếc xe đi lạc đường và họ bị đưa vào trại lúc một giờ khuya.
Westerbork: nơi họ bị đưa đến trong đêm 3 rạng ngày 4 tháng 8 và đã được bà Etty Hillesum, người có mặt lúc đó mô tả như sau: “Tình trạng chung ở Westerbork là hỗn độn, gần giống như quanh tấm ván thuyền trôi giạt của một chiếc tàu trên đó những người đắm tàu níu vào trước khi chết chìm. Đôi khi người ta nghĩ, thà bị vào trại tập trung còn hơn phải chứng kiến cảnh sợ sệt, tuyệt vọng của hàng ngàn, hàng ngàn đàn ông, đàn bà, trẻ con, người tàn phế, người điên, người lớn tuổi mà trong một hàng dài gần như vô tận đi dọc theo bàn tay cứu giúp của chúng tôi”.
Auschwitz: số 44074. Với bản tin ngắn gọn và theo thủ tục hành chánh: “Ngày 9 tháng 8, tại Ba Lan, đã qua đời bà Stein, Edith Thérèse Hedwige, sinh ngày 12 tháng 10 -  1891 ở Breslau, thường trú ở Echt”.
Người làm vườn của tu viện Echt, một ký giả bạn và một cựu tù nhân bị đày đã ở bên cạnh Thánh Edith trong những giây phút cuối này. Họ đã ra làm chứng như chứng nhân bằng mắt khi mở án phong chân phước và xem xét đời sống và chứng tá đứng trước cái chết của triết gia hiện tượng học, vị Thánh của Dòng Kín.
Có thể tóm về Edith Stein như sau: “Bà nói với một giọng tự tin khiêm tốn, đến mức những ai nghe cũng phải cảm động. Một buổi nói chuyện với bà ( …) như một chuyến du hành đến một thế giới khác. Trong những lúc này, Westerbork như không còn tồn tại … Bà nói với tôi: ‘Tôi không bao giờ có thể nghĩ rằng con người có thể như vậy, và ... anh em tôi lại đau khổ cực độ như thế sao!’. Khi chuyện này không còn nghi ngờ gì thì bà bị chuyển đi nơi khác, tôi hỏi nếu tôi có thể giúp bà được và (tìm cách giải thoát bà); … thì thêm một lần nữa, bà cười với tôi và van tôi đừng làm như vậy. Tại sao lại làm một ngoại lệ cho bà và cho nhóm của bà? Điều này không công chính, bà được đặc ân chỉ vì bà đã rửa tội sao! Như thử nếu bà không thể chịu chung số phận với người khác thì cuộc đời của bà sẽ bị thiêu rụi: “Không, không, không được như vậy!”.
Ký giả Van Kempen đứng trước một “phụ nữ cao cả và vững mạnh về mặt thiêng liêng”. Trong cuộc trao đổi, ông hút một điếu thuốc và hỏi “bà có muốn hút một điếu không”. Bà trả lời với tôi, đã có một thời bà đã hút và ngày trước, khi còn sinh viên, bà cũng có khiêu vũ”.
Người cựu tù nhân bị đày ghi nhận một khía cạnh đặc biệt: “Bà rất can đảm; bà trả lời như bà vẫn trả lời. Khi các tên lính đức quốc xã phỉ báng bà, bà không phản ứng, bà vẫn trung thực với chính mình. Bà tuyệt đối không sợ”.
Wielek, người công chức Hà Lan thuật lại một cuộc đối thoại, trong đó “với tự tin và khiêm tốn”, Thánh Edit Stein đã nói: “Thế giới được làm bởi những chuyện nghịch lý ... Nhưng chung cuộc sẽ không được làm bởi các chuyện nghịch lý này. Còn lại chỉ là tình yêu cao cả. Làm sao thế giới có thể khác đi được?”

Marta An Nguyễn dịch

Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2017

5 vị thánh qua đời khi còn đang tuổi thiếu nhi

5 vị thánh qua đời khi còn đang tuổi thiếu nhi.
Roma (Vat. 1-06-2017) - Sáng Chúa nhật ngày 13 tháng 5 năm 2017, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ðức Mẹ Maria hiện ra với 3 trẻ mục đồng tại Fatima, Ðức Thánh Cha Phanxicô đã tôn phong hai chân phước Phanxicô và Giaxinta lên bậc hiển thánh. Hai vị thánh trẻ này là những hiển thánh trẻ nhất trong lịch sử Giáo hội cho đến nay, nhưng không phải là những thiếu nhi đầu tiên được Giáo hội phong thánh. Trước đây, đã có các thiếu nhi được tuyên phong, như thánh José Luis Sánchez del Río, thánh Ðaminh Savio và chân phước Imelda Lambertini và nhiều hồ sơ của các vị Tôi tớ Chúa hay Chân phước còn rất trẻ đang được cứu xét. Tuy không phải là các giám mục hay giáo hoàng nổi tiếng, không là các vị tài đức khôn ngoan nổi bật, nhưng các vị thánh trẻ cũng là những vị thánh lớn trong Giáo hội vì gương lành và ảnh hưởng của các ngài để lại cho Giáo hội. Các thánh trẻ dạy chúng ta nhiều điều dù là tuổi đời của các ngài thật non trẻ. Các thánh trẻ dạy chúng ta biết rằng chìa khóa nên thánh là trở nên bé nhỏ và có tinh thần phó thác vào Cha trên trời như các em bé. Các ngài cho chúng ta thấy niềm tin kỳ diệu của các ngài.
Sau đây chúng tôi xin gửi đến quý vị tiểu sử vắn tắt của 5 vị thánh, ngay từ khi tuổi đời còn rất thơ dại, đã tận hiến chính mình cho Chúa và được Chúa cho hưởng vinh quang thiên quốc khi còn rất trẻ.
- Thánh Ðaminh Saviô sinh năm 1842, tại làng Riva, miền bắc nước Ý, trong một gia đình Công giáo đạo hạnh, là học trò của thánh Gioan Bosco. Ngay từ khi còn nhỏ, Savio đã yêu mến Chúa và Giáo hội và luôn thực hành đức tin Công giáo. Khi được 3 tuổi, Saviô đã cầu nguyện hàng ngày với lòng sùng kính Chúa và còn nhắc nhở cha mẹ cậu khi họ quên cầu nguyện. Khi lên 5 tuổi, Savio đã học giúp lễ và được phép rước lễ lần đầu khi lên 7 tuổi; vào thời đó, đây là một điều đặc biệt. Ðối với Savio, ngày được rước lễ lần đầu là ngày hanh phúc và tuyệt vời nhất trong cuộc đời. Cậu đã viết 4 lời hứa trong một cuốn sổ nhỏ: 1/ Tôi sẽ thường xuyên xưng tội và rước lễ khi cha giải tội cho phép; 2/ Tôi ao ước thánh hóa ngày Chúa nhật và các ngày Lễ trọng khác cách đặc biệt; 3/ Các bạn của tôi sẽ là Chúa Giêsu và Mẹ Maria; và 4/ Thà chết còn hơn pham tội.
Saviô ao ước mãnh liệt thực hiện điều Chúa muốn, cậu nói: "Tôi không thể làm những việc lớn lao vĩ đại. Nhưng tôi muốn tất cả những điều tôi làm, ngay cả những điều bé nhỏ nhất, là để Chúa được vinh danh hơn. Khi ở trường học, Saviô sống gương mẫu, hy sinh, chấp nhận những vu cáo vì muốn noi theo gương Chúa Giêsu. Savio ao ước trở thành linh mục và được chính thánh Gioan Bosco hướng dẫn. Nhưng sức khỏe của Saviô rất yếu, và mong ước được sớm về với Chúa. Savio qua đời khi chưa tròn 15 tuổi. Ngày 12 tháng 4 năm 1954, Ðức Giáo hoàng Pio XII đã tôn phong Saviô lên hàng hiển thánh. Thánh Ðaminh Savio được chọn làm bổn mạng của các ca viên thiếu nhi, những người bị cáo gian, vv ....

- Thánh José Luis Sánchez del Río sinh năm 1913, tại Mêhicô. Khi cuộc chiến Cristero, một cuộc tranh đấu chống lại chế độ tục hóa, chống lại chế độ chống Công giáo và đức tin, bùng nổ vào năm 1926, cậu bé José đang còn đi học ở trường. Nhiều người Công giáo Mêhicô nổi dậy để bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Hai người anh của José gia nhập lực lượng nổi dậy và cậu bé cũng muốn đi theo các anh. Năm 14 tuổi, José được nhận vào để giúp các việc ở chiến trường và sau đó, trở thành người cầm cờ của tổng tư lệnh. José nói rằng cậu muốn dâng cuộc sống cho Chúa Giêsu Kitô và biết là cậu có thể dễ bị chết trên chiến trường.
Trong một cuộc chiến, José đã bi bắt và bị các binh lính bắt phải chối bỏ đức tin Công giáo nhưng cậu cương quyết từ chối và điều này đã làm cho các binh lính nổi giận. José đã thuyết phục cha mẹ không trả tiền chuộc cậu theo yêu cầu của chính quyền. Sau khi José được một người dì mang Mình Thánh Chúa cho cậu lãnh nhận như "của ăn đàng", cậu đã bị các binh lính lột da bàn chân từ từ, bắt cậu đi trên muối và lôi cậu đi trên đường, chân không có giày, cho đến nghĩa trang. Họ định đâm José chết để tránh ồn ào, nhưng vì trên đường đi, cậu không ngừng hô "Vạn tuế Chúa Kitô Vua!", làm các binh lính bực mình và cuối cùng, viên sĩ quan đã bắn cậu chết vì không chịu chối đức tin. Khi ấy José được 15 tuổi. Ngày 16 tháng 10 năm 2016 Ðức Giáo hoàng Phanxicô đã tuyên phong hiển thánh cho José.

- Hai thánh Phanxicô và Giaxinta Marto là hai vị thánh được nói đến nhiều trong năm 2017. Phanxicô sinh năm 1908, còn Giaxinta sinh năm 1910. Hai vị thánh này là 2 trong số 3 trẻ mục đồng mà Ðức Mẹ Maria đã hiện ra với họ nhiều lần trong năm 1917. Sau khi được nhìn thấy Ðức Mẹ hiện ra, hai thiếu nhi này đã quyết định dâng hiến bản thân, hiến dâng mạng sống như lễ hy sinh để đền thay tội lỗi của thế giới.
Ước muốn duy nhất của Phanxicô là "an ủi và làm cho Chúa Giêsu vui lòng"; cậu đã khó vì nghĩ tới những tội lỗi con người đã phạm chống lại Chúa Giêsu. Phanxicô chịu đựng những bệnh tật đau khổ mà không hề than van. Ðói với cậu, tất cả dường như còn quá ít để an ủi Chúa Giêsu. Phanxicô qua đời với nụ cười trên môi. Cả Giaxinta cũng thế, em đã chịu đựng những đau đớn do bệnh tật và nói: "Ôi, con ao ước chịu đau khổ bao nhiêu vì tình yêu dành cho Chúa và Ðức Mẹ; các ngài rất yêu thương những người chịu đau khổ hy sinh để người tội lỗi trở lại. Khi Giaxinta đang đau bệnh, nằm trên giường, Ðức Mẹ đến thăm hai em và cho biết Mẹ sắp mang Phanxicô về trời, Giaxinta cũng muốn hoán cải các tội nhân. Khi Phanxicô gần lìa thế, Giaxinta dặn anh: "anh hãy mang những lời chào thăm của em cho Chúa và Ðức Mẹ nhé, và thưa với các Ngài rằng em sẵn sàng chịu đựng tất cả những gì các ngài muốn để hoán cải người tội lỗi ."
Phanxicô qua đời khi được 10 tuổi, còn Giaxinta chỉ mới 9 tuổi. Vào ngày 13 tháng 5 năm thánh 2000, Ðức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Phanxicô và Giaxinta lên bậc chân phước và ngày 13 tháng 5 năm 2017, Ðức giáo hoàng Phanxicô cũng đã tôn các ngài lên hàng hiển thánh.

- Chân phước Imelda Lambertini sinh năm 1322. Khi còn rất nhỏ, Imelda đã có lòng đạo đức đặc biệt, yêu thích cầu nguyện. Khi mới 9 tuổi, cô đã bị thu hút bởi đời sống tu trì và xin vào dòng Ðaminh. Cha mẹ của cô bé rất ngạc nhiên, nhưng nhìn thấy lòng sùng kính và tình yêu Chúa của cô bé, họ đã cho cô đến sống ở đan viện gần đó. Ở đó, Imelda được mang tu phục dòng Ðaminh và sống đời sống của các nữ tu. Ao ước lớn nhất của Imelda là được lãnh nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng vào thời đó, phải 14 tuổi mới được rước lễ lần đầu. Tuy vậy, Imelda vẫn kiên trì cầu xin. Vào môt ngày lễ Thăng Thiên, khi cả cộng đoàn được rước Mình Thánh Chúa, chỉ có Imelda là không được. Sau Thánh lễ, khi một nữ tu đang dọn bàn thờ, chợt nghe tiếng ồn. Chị nhìn lên và thấy Minh Thánh Chúa lơ lửng trên không, ở phía trên đầu Imelda, khi cô đang quỳ gối đắm mình trong cầu nguyện trước Nhà Tạm. Linh mục nhìn thấy phép lạ hiểu rằng đó là một dấu chỉ và đã cho Imelda được rước lễ lần đầu. Với nụ cười trên môi, Imelda đã qua đời không lâu sau đó, khi mới 11 tuổi. Chân phước Imelda được chọn làm bổn mạng các trẻ em rước lễ lần đầu.

Hồng Thủy
(Radio Vatican)