Thứ Hai, 26 tháng 2, 2018

GIA ÐÌNH, TRƯỜNG DẠY YÊU THƯƠNG

GIA ÐÌNH, TRƯỜNG DẠYYÊU THƯƠNG

Hội Thánh mừng lễ Thánh Gia như là gương mẫu của các gia đình Công Giáo. Thú thật, tôi thấy Hội Thánh hơi bạo gan khi đưa Chúa Giêsu, thánh Maria và thánh Giuse như một mẫu mực vì Thánh Gia không phải như những gia đình khác. Ðức Giêsu là con người nhưng cũng là ConThiên Chúa. Ðức Maria thụ thai Con Thiên Chúa không bởi ý muốn của nam nhân nhưng do tác động của Thánh Thần nên cứ giữ mình trinh khiết đến mãn đời vợ chồng. Còn Ðức Giuse thì thật là anh hùng khi đón nhận một thai nhi mà mình không phải là tác giả, cưới vợ mà như không cưới. Thế thì còn gì là hấp dẫn của đời sống lứa đôi, và nếu cứ phải theo gương Thánh Gia sống như vậy thì thà ở vậy còn thích hơn. Có chăng chỉ là để tôn thờ Thánh Gia, chứ chẳng phải để bắt chước mà sống như vậy đâu !

Tuy nhiên, Thánh Gia vẫn là một gia đình đích thực, và mọi thành phần trong gia đình ấy đều tìm thấy hạnh phúc. Bí quyết nào đã giúp các ngài tìm thấy hạnh phúc nếu không phải là tình yêu. Chính vì yêu mến mà Maria và Giuse đã tiến tới hôn nhân dù khó khăn và thử thách không phải là ít. Chính trong môi truờng gia đình mà hai ngài đã học cách yêu thương nhau, và đã làm cho tình yêu ấy thực sự đơm bông kết trái. Vì thế tôi muốn chia sẻ với quý anh chị là những gia đình trẻ về đề tài: "Gia đình là trường học dạy yêu thương".

Nếu nói gia đình là trường học thì không hẳn cha mẹ là thầy cô, còn con cái là học trò. Cha mẹ vừa là người thầy, vừa là môn sinh, đặc biệt trong môn học về tình yêu. Bởi lẽ sống là yêu và yêu là cả một nghệ thuật cần được học hỏi và trau dồi suốt đời.

1) Học ăn học nói học gói học mở, và học cả chữ yêu:
Chữ nhân theo kiểu chữ Hán Việt là nét vẽ một người đang dang tay dang chân, nghĩa là một con người hoạt động, con người đang làm việc. Như vậy, con người không phải là cái đã làm sẵn, đã thành toàn, nhưng là cái phải làm nữa thì mới thành: thành nhân, phải cố gắng nữa thì mới nên người: có chí thì nên. Hoạt động để thành công, nhưng thành công cũng chưa phải là quan trọng: không thành công thì cũng thành nhân.

Từ lúc chào đời đến lúc từ biệt cõi đời, chúng ta giống như người tạc tượng, phải không ngừng đục đẽo mình cho ra hình dáng con người, bởi vì chúng ta sinh ra không phải tự nhiên đã thành nhân, việc thành nhân hay nên người là việc mỗi người phải tự mình làm lấy, người khác chỉ có thể hướng dẫn hay chỉ cách mà thôi. Ngày sinh nhật hay ngày kết hôn cũng mới chỉ là bản phác thảo, mỗi ngày chúng ta còn phải vẽ đi uốn lại cuộc đời mình. Ngày chết cũng vẫn còn dang dở, và Thiên Chúa sẽ hoàn tất cái dang dở này để chúng ta không còn điểm gì khác Chúa nữa.

Yêu không phải là một vấn đề thuần tuý bản năng, giống như mọi thú vật khác. Ai trong chúng ta cũng biết rằng một hành động thuần tuý là bản năng chưa phải là tình yêu, vì chúng ta không thể đồng hoá tình yêu với tính dục. Vấn đề không phải chỉ là đạt được khoái cảm, song còn là trao ban và chuyển đạt tình yêu cho nhau.

Có một tác giả nói rằng con người thời nay thích học bay như chim trời khi chế tạo được máy bay phản lực, mải mê bơi lặn như cá dưới nước khi chế tạo ra tầu thuỷ tầu ngầm, song chẳng mấy người chịu học bài học cơ bản là học chung sống với mọi người chung quanh mình.

Gia đình là trường học đầu tiên về yêu thương, và nếu gia đình tan vỡ thì biết tìm học ở đâu bài học cơ bản ấy. Bài học vỡ lòng về yêu thương không những khởi đầu trong gia đình mà còn lập lại trong suốt cuộc đời. Yêu thương là một khởi đầu không bao giờ kết thúc vì tình yêu luôn là một cuộc tái sinh. Tình yêu không bao giờ chấp nhận cũ kỹ hao mòn, vì thế luôn luôn phải đổi mới. Ðổi mới bằng cách nào nếu không phải là quên mình để sống cho người mình yêu thương. Bởi lẽ tình yêu như dòng nước chảy, luôn luôn tuôn trào, không bao giờ giữ lại. Nếu dòng sông giữ lại nước thì dòng sông đã biến thành ao tù nước đọng, và ô nhiễm là chuyện không thể tránh khỏi.

Nhà văn hào Pháp, Victor Hugo, đã nói một câu mới nghe có vẻ khó chấp nhận: "Người ta không lấy nhau vì yêu nhau, mà lấy nhau để học yêu nhau". Song những ai đã bước vào đời sống hôn nhân thì không thể phủ nhận thực tế đó. Ngày cưới cũng mới chỉ là ngày khai giảng của trường học yêu thương, và bài học cơ bản là học sống với người khác. Khởi điểm của tình yêu có thể là những tương đồng vì đôi bạn có nhiều điểm giống nhau, nhưng khi đã chung sống thì những tương đồng cứ biến dần nhường chỗ cho những khác biệt và xung khắc.

Có người bi quan nòi rằng:
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở,
đời mất vui khi đã vẹn câu thề".
Hai câu thơ trên của Hồ Dzếnh còn được chế thêm rằng:
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở,
lấy nhau về nham nhở lắm em ơi!".
Song mấy bà cũng không vừa:
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở,
lấy nhau về em tắt thở, anh ơi!".
Nếu thế, hôn nhân là mồ chôn của tình yêu. Người ta cưới nhau không phải là chỉ cưới một khuôn mặt đẹp, một nụ cười duyên, một mái tóc óng ả, hay một sở thích tương đồng nhưng là cưới cả một con người, mà người nào chả có cái tốt cái xấu, cái được cái không được, cái dễ ưa và cái khó ưa. Có chấp nhận nhau thì hôn nhân mới là môi sinh của tình yêu.

2) Học yêu là học cho đến cùng chữ yêu:
Học để yêu là bài học không bao giờ dừng lại với thời gian, cho dù đã là vợ chồng của nhau, bởi lẽ mỗi người vẫn luôn là một huyền nhiệm thâm sâu, một huyền nhiệm không dễ dàng lý giải mà chỉ có sự hiểu biết của con tim tấm lòng mới hy vọng đạt thấu.

Sam Levenson nói: "Ngó một cái mà thương liền là còn dễ. Ngó mặt nhau cả đời mà vẫn còn yêu nhau mới là khó. Nó cả là một phép lạ". Vì thế, có người cho rằng "tìm hiểu nhau ba tuần, yêu nhau ba tháng, cãi nhau ba năm, nhưng sẽ phải tha thứ cho nhau ba mươi năm"...

Tình yêu là chết đi đối với chính mình, là nộp mình như Chúa Giêsu đã hy sinh tính mạng vì người mình yêu thương. Yêu người là muốn người đó được sống và sống dồi dào, chứ không phải là lấn lướt để người đó thua kém đi. Sức mạnh của tình yêu là như thế đó ! Làm tất cả những gì có thể làm, song không bao giờ ép buộc người mình yêu. Như vậy, phải mạnh mẽ lắm mới có thể quên mình, để tha thứ. Có thể gọi sự toàn năng của tình yêu là sự tha thứ; và Thiên Chúa chính là nguyên mẫu vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Hordelin, một thi sĩ người Ðức, đã nói: "Thiên Chúa giáng sinh làm người giống như biển cả làm nên đất liền bằng cách rút lại". Ðại dương thật mênh mông, muốn có đại lục thì chỉ còn cách là biển cả phải thu hẹp, nhường chỗ cho đất liền nhô lên khỏi biển. Thiên Chúa giáng sinh làm người là Thiên Chúa không cứ giữ cho mình chức vị đồng hàng với Chúa Cha, song đã tự huỷ mình ra không để trở nên giống phàm nhân (Philíp 2,6-7), và chấp nhận để cho con người tuỳ nghi sử dụng, đến nỗi không có chỗ cho Ngài trong quán trọ (lc 2,7), thậm chí còn bi đát đến nỗi Ngài đến nhà của mình mà người nhà lại không tiếp nhận (Ga 1,11).

Hôn nhân làm cho vợ trở thành nha của chồng, và chồng là nhà của vợ, nên người ta hay gọi là nhà tôi. Thế mà khi cả hai đã nên một trong thân xác, người ta lại thích lui tới nhà khác chứ không phải là nhà tôi. Có người chia sẻ với tôi: "Thưa cha, mỗi khi con ra khỏi nhà là chỉ muốn đi luôn, nếu không nghĩ tới con cái thì con đã không trở về nhà, dù đó là nhà của mình". Tại sao vậy? Chỉ vì căn nhà ấy không còn chỗ cho tình yêu; chỉ vì sự tha thứ không còn chỗ trong quán trọ nên đã phải lang thang ngoài đồng vắng nơi những hang bò lừa qua đêm.

Các bạn cứ nhìn vào Thánh Gia mà coi xem ngôi nhà của các ngài là gì? Dù không có nhà cao cửa rộng, giường ấm nệm êm, song gia đình Nagiarét không phải là quán vắng tình yêu. Maria đang lúc ở cữ lại phải rời bỏ căn nhà Nagiarét để lên đường vì lệnh kiểm tra dân số. Mới qua được những cơn gió lạnh ngoài hang bò lừa để tìm được một chỗ trú thân thì lại phải bỏ đi Ai Cập vì sự an toàn của hài nhi Giêsu. Mới kiếm được một công ăn việc làm nơi đất khách quê người, thế mà lại phải trở về Nagiarét để làm lại từ đầu. Vậy thì nha của các ngài là gì, nếu không phải là tâm hồn của nhau. Chỉ có ngôi nhà tình yêu ấy mới không bị đóng khung bởi bốn bức tường, mới không bị lún sập khi biển đời dồn dập sóng vỗ. Trong xây dựng, người ta hay nói tới bê-tông vĩnh cửu, tôi xin đính chính ngay: không có bê-tông vĩnh cữu cho căn nhà của tình yêu, vì với thời gian, sự dãn nở của sắt ích kỷ cũng có thể phá vỡ bê-tông khi thời tiết thay đổi. Bởi đó, tình yêu con người không bao giờ là tình yêu một mùa, dù là mùa Xuân. "Bốn mùa thay lá thay hoa, thay mãi đời ta"; và dù lá mùa Thu có rơi rụng giữa mùa Ðông thì cũng đừng tuyệt vọng, tôi ơi, đừng tuyệt vọng. Và điều đó chỉ xảy ra khi nào vợ chồng có thể nói với nhau: "Em là tôi, và tôi cũng là em" (Tôi ơi đừng tuyệt vọng, TCS), nghĩa là cuối cùng của tình yêu là tha thứ.

* * *

Ngày lễ Thánh Gia được gọi là ngày lễ của gia đình, hoặc ngày 14 tháng Hai hàng năm được chọn là ngày của tình yêu, song có phải mỗi năm chỉ có một hoặc hai ngày để yêu nhau không? Có ngày nào không phải yêu thương nhau? Có giây phút nào không phải là giây phút của tình yêu? Có chăng ngày lễ chỉ cốt để nhắc nhớ đôi bạn: sống là yêu, và yêu là phải quên mình để sống cho người mình yêu, và quên mình thì đồng nghĩa với từ bỏ và hy sinh, với việc vác thập giá mình mà sánh bước bên nhau đi về một hướng. Hướng đó là Thiên Chúa Tình Yêu.

Có người nói rằng cái tôi là cái đáng ghét. Tại sao vậy? Rất đơn giản: nếu bạn để cho cán cân hôn nhân nặng về cái tôi, thì bạn cứ thử đánh vần coi: tôi nặng... tội. Tuy nhiên, nếu bạn nhường chỗ cho Thiên Chúa thì hôn nhân và gia đình luôn là điều thiện hảo tốt đẹp vì khi đó: Thiên nặng ... thiện.

Những Cám Dỗ Của Mùa Chay

Nhng cám d ca Mùa Chay
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CMC)

Mùa Chay bắt đầu vào thứ 4 Lễ Tro, là ngày bắt đầu của một chu kỳ Phục Sinh, một chu kỳ đầy sức sống hạnh phúc. Mùa Chay còn được gọi là mùa "Chữa bệnh" hơn là mùa "đền tội". Mùa Chay theo thể lý, người ta sẽ hãm mình, hãm các đam mê thể xác, bớt ăn uống theo sở thích ... Đó là một hình thức tìm lại sự quân bình cho thân thể (Chữa bệnh phần xác).

Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng tìm cách hãm dẹp những tính mê nết xấu (như thích vui chơi đàng điếm, ham mê rượu chè, thú cờ bạc ...), hãm dẹp những tư tưởng bất chính (trả thù, ghen ghét, hằn học, gian lận, biếng nhác ...), để tìm lại một tâm hồn thảnh thơi an bình (Chữa bệnh phần hồn).

Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng không quên gia tăng lòng đạo hạnh qua việc chu toàn bổn phận tinh thần: Đọc thêm kinh sách, cầu nguyện, tham dự các giờ Thánh Lễ, Phụng vụ chung, hành hương kính viếng nơi thánh, dành thêm thì giờ làm việc thiện, giúp đỡ mọi người, bố thí cho người nghèo ....

Trong Mùa Chay ta bắt chước Chúa, lắng đọng tâm hồn như đi vào rừng vắng để dễ cầu nguyện, xây dựng đời nội tâm thêm mạnh mẽ, để có đủ sức chiến đấu với mọi cám dỗ trong đời. Chúa Kitô trước khi thi hành sứ mệnh tông đồ, Ngài vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi và cầu nguyện, đồng thời qủi đến cám dỗ Ngài.

Việc ma qủi cám dỗ Chúa thực là một việc thánh, vì Ngài đã kể những cách cám dỗ nơi chính mình cho chúng ta có kinh nghiệm. Các cám dỗ đem đến cho Ngài cũng không phải là loại cám dỗ thường tình của người đời: Hóa phép cho đá thành bánh - Nhẩy từ trên nóc đền thờ xuống mà không chết. Chỉ có một cái cám dỗ giống loài người là ham danh vọng: Quì xuống tôn thờ ma qủi để đoạt được quyền uy thế phiệt. Ma quỷ đoán Ngài phải là một nhân vật rất thánh, thánh khác thường, vì nó thấy Ngài cầu nguyện và suy nghĩ bằng những năng lực  phi thường (khác lối suy nghĩ và cầu nguyện của loài người), để tìm cách chinh phục các linh hồn, nên nó dùng phương pháp cám dỗ cũng khác thường như vậy.
Những cám dỗ này chắc cũng không phải xẩy ra một lúc, mà suốt 40 đêm ngày suy nghĩ và ma quỷ đã đến đưa phương thế giúp Ngài giải quyết.

1. Đưa đá cho Chúa, ma quỷ giải quyết rằng Ngài có thể dùng quyền năng phi thường của mình mà biến hóa vật chất nên của quí giá làm lòa mắt người trần, đánh mạnh vào lòng ham thích vủa cải sang trọng, để lôi kéo họ theo mình. Vì nhân loại thường dùng quyền thế, chức vị danh vọng để sai khiến nhau.

2. Cho Ngài xem thấy tất cả thế gian, ma qủy giải quyết rằng việc cai trị cả nhân loại không khó gì, chỉ cần qùy xuống xin hắn, thì hắn cho đủ quyền cai quản đó. Vì nhân loại dễ dàng chấp nhận quy phục gian tà để có quyền gây thanh thế trên người khác. Chúa dạy phải công chính hóa đời mình và chỉ phục quyền Đấng có quyền thật.

3. Trong cám dỗ thứ ba chúng giải quyết: Cứ nhảy xuống mà không việc gì, sẽ làm cho dân chúng thấy rùng rợn mà theo, vì phép tắc của Ngài không ai có thể vượt được. Vì nhân loại vẫn hay dùng lối bùa phép này để dọa nạt người khác, nhưng Chúa dạy không lừa dối, gạt gẫm người ta.

Trên đường theo Chúa, giữ đạo, đôi khi chúng con thấy mình khó thắng các cám dỗ quá. Xin Chúa thêm sức mạnh để chúng con có thể thực hiện điều Chúa dạy cách bền chí.





Xem thêm:

NHỮNG KHOẢNH KHẮC TUYỆT VỜI CHÚNG TA THƯỜNG BỎ QUA

Bạn không cần một loạt những món đồ mới và đắt tiền mới có thể cảm thấy vui vẻ. Hạnh phúc ở gần, và dễ nắm lấy hơn nhiều.

Bạn có thể tìm được hầu hết những gì mình cần bằng cách chú ý đến những món quà mình đã có sẵn - những khoảnh khắc đơn giản, hoàn hảo có thể khiến chúng ta mỉm cười. Đó là:

Một buổi sáng trời lạnh tĩnh lặng với một cốc trà ấm.

Một cái ôm từ ai đó mà bạn yêu thương.

Tự học được một kỹ năng mới như đan len, nấu món Thái…

Cảm giác “nhộn nhịp” trong cơ thể sau khi bạn tập thể thao.

Ngồi cạnh người bạn thân, hoàn toàn im lặng và vẫn cảm thấy thoải mái.

Xem những bức ảnh cũ của gia đình và phá lên cười.

Đi quanh nhà và sung sướng ngắm nhìn thành quả của một buổi dọn dẹp.

Mùi thơm của bữa ăn nhà nấu.

NHỮNG KHOẢNH KHẮC TUYỆT VỜI
Khi bạn nhìn vào mắt một người bạn từ đằng xa và cả hai tự nhiên mỉm cười với nhau.

Có một cuộc trò chuyện rất thú vị với một người lạ mà bạn gặp lần đầu tiên trên xe buýt hoặc ở một buổi hội thảo.

Một người đặc biệt nào đó cứ muốn thu hút sự chú ý của bạn.

Biết rằng những người khác cũng đang trải qua những vấn đề giống bạn và có thể hỏi ý kiến của họ. Hoặc ít nhất, bạn cũng biết rằng mình không phải chỉ có một mình.

Ngước nhìn lên cao vào một buổi tối trời trong và nhìn thấy rất nhiều ngôi sao.

Đi chung ô với ai đó vào một ngày trời mưa.

Khi đường thoáng và bạn đi từ trường về đến nhà nhanh hơn mọi khi.

Một chỗ yên tĩnh ở một góc trong thư viện.

Cảm giác vui thích khi nhìn vào một bức ảnh của mình và thấy nó rất đẹp.

Khi một video trên mạng được tải rất nhanh và chạy mà không có quảng cáo.

Có thể là người mang tin tốt đến cho ai đó.

Biết rằng mình vừa tạo nên sự khác biệt cho một ngày của ai đó.

NHỮNG KHOẢNH KHẮC TUYỆT VỜI

Bạn có thường xuyên trải qua những khoảnh khắc hoàn hảo kiểu như trên? Và bạn có thường xuyên không để ý đến giá trị của những khoảnh khắc đó. Nếu câu trả lời của bạn là “Rất thường xuyên”, thì cũng không sao. Chúng ta ai cũng có lúc quên. Nhưng hãy coi bài viết này là một lời nhắc nhở tích cực nhé!

TEAMIRI

Tại sao Thánh Kinh có tên gọi là “Thánh Kinh?”

Dù con số thống kê có thay đổi từ số này qua số kia thì quyển Thánh Kinh vẫn là quyển sách được bán nhiều nhất và được phân phối nhiều nhất trên thế giới. Được dịch ra gần như hầu hết các ngôn ngữ, Thánh Kinh là quyển sách đầu tiên được in ra và là một tác phẩm hoàn vũ. Gần như ai cũng có một quyển Thánh Kinh và cũng đọc một vài đoạm nhưng ít ai biết nguồn gốc tên của nó.
Tiếng Pháp là “bible” đến từ chữ la-tinh là “biblia”, chữ biblia đến từ chữ Hy Lạp biblion(βιβλίον) có nghĩa đơn giản là “sách”. Có thể từ rất sớm, ngay từ thế kỷ thứ 3, Sách Thánh đã được các tín hữu kitô thâu thập lại với tên Hy Lạp Ta Biblia (τὰ βιβλία), một chữ theo số nhiều, có nghĩa là “các quyển sách”. Qua dòng thế kỷ, hai thành ngữ được dùng song song để chỉ Sách Thánh: biblia sacra (sách thánh) tiếng la-tinh và biblia to hagia(sách thánh) tiếng Hy Lạp.
Cũng hơi lạ, một quyển sách thiêng liêng như quyển Thánh Kinh lại mang một cái tên tầm thường. Tuy nhiên phải nhớ lại nguồn gốc của nó, việc gọi tên này là để cho thấy Sách Thánh không phải là một quyển sách như các sách khác, nhưng là quyển sách tiêu biểu. Đó là quyển sách giữa các sách, quyển sách lớn nhất.
Chữ biblia mang số nhiều trong tiếng la-tinh và Hy Lạp nhưng qua tiếng Pháp thì lại mang số ít để chỉ định, đây là quyển sách chính nó gom lại của nhiều sách khác. Người công giáo nhìn nhận 73 quyển, đi từ sách Sáng Thế đến sách Khải Huyền. Như thế chỉ một mình quyển Thánh Kinh đã tự nó là một thư viện!
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch


Suy niệm ngày 26/2/2018

Lời Chúa: Lc 6, 36-38

36
 “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.37 Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.38Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”
SUY NIỆM 

Lời Chúa trong trang Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta về thái độ phải có đối với tha nhân: “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”. 

Thiên Chúa là Đấng nhân từ, Đấng chậm giận, Đấng giàu lòng tình thương. Bởi vì nếu Chúa chấp tội thì ai có thể đứng vững trước nhan Chúa.

Người môn đệ Chúa Giêsu được kêu mời luôn thể hiện dung nhan hiền từ của Chúa cho tha nhân. Theo Chúa Giêsu, sống nhân từ không xét đoán anh em của mình, không kết án tha nhân của mình, biết tha thứ cho những ai xúc phạm đến mình, là hoa trái của một cuộc đời biết sống như Chúa. Đây là cách sống luôn có sức hấp dẫn lôi kéo người khác đến với mình. Cuộc sống đó sẽ không cô đơn nhưng bên cạnh luôn có những người bạn thân thiết. Nếu lỡ cuộc sống có những lầm lỗi yếu đuối thì họ sẽ được người khác dễ dàng thông cảm và tha thứ. 

Nhân từ còn là món quà trang sức tô điểm xinh tươi cho gia đình. Thử hỏi nếu vợ chồng sống nhân từ với nhau thì tình yêu của họ sẽ như thế nào? Cha mẹ sống nhân từ với con cái thì gia đình đó sẽ ra sao? Nhân từ còn là sức mạnh xây dựng một xã hội vững bền an vui. Thử hỏi nếu giữa người với người sống nhân từ với nhau, giữa tập thể sống nhân từ với một tập thể, giữa quốc gia sống nhân từ với một quốc gia, thì đất nước và thế giới sẽ hạnh phúc biết bao.

Như vậy, nhân từ còn là cơ hội để kiến tạo sự an bình trong gia đình, Giáo Hội và thế giới. Xin Chúa ban cho chúng con luôn biết sống như Chúa là Đấng nhân từ trong môi trường mình đang sống và hoạt động. Amen.


GKGĐ Giáo Phận Phú Cường

CHÚA CHA LÀ ĐẤNG NHÂN TỪ
 “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ.” (Lc 6,36)
Suy niệm: Nhiều Ki-tô hữu có thể nghĩ đơn giản rằng mọi sự sẽ ổn cho thế giới này nếu mọi người đều tin có Chúa. Thực ra, việc tin có Chúa cũng chưa hẳn là đã ổn. Nghĩ về Chúa như một ông cảnh sát hà khắc hay một quan toà hẹp lượng, hay một ông chủ tham lam bủn xỉn luôn so đo tính toán từng li từng tí… thì đó là đang theo một thứ đạo ‘khủng bố’, đầy sự sợ hãi và đối phó, chứ không phải là đạo mà Đức Giê-su rao giảng. Đức Giê-su đã không phải mất công nhiều để thuyết phục người ta tin có Chúa (vì đồng bào của Ngài vốn đã tin như vậy rồi), song mối quan tâm của Ngài là giúp người ta nhận ra Thiên Chúa là CHA NHÂN TỪ– và thúc đẩy họ sống nhân từ như Cha vậy.
Mời Bạn: Xem lại hình ảnh mình có hiện nay về Thiên Chúa và đối chiếu với hình ảnh Thiên Chúa mà Đức Giê-su trình bày. Điều quan trọng không phải chỉ là một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa trong trí tôi, mà là một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa thể hiện ra nơi chính con người tôi (bởi tôi là hình ảnh của Ngài mà!). Thiên Chúa là Đấng nhân từ, còn tôi có phải là một con người nhân từ như hình ảnh của Ngài không?
Chia sẻ: Đức Giê-su dạy rằng nhân từ là thứ tha và chia sẻ chứ không phải là xét đoán vàlên án (câu 37 và 38). Bằng cách nào chúng ta có thể thực hành lối sống này?
Sống Lời Chúa: Tích cực chống lại cái cám dỗ suy luận chủ quan và chỉ trích người khác, đồng thời tận dụng mọi cơ hội để bày tỏ sự cảm thông đối với họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin biến đổi con, để con có lòng nhân từ như Cha trên trời là Đấng nhân từ.

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

Xin Ơn Biến Đổi


Suy Niệm Chúa nhật II Mùa Chay – B
(Mc 9, 1-9)

Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố Chúa Giêsu biến hình, một mầu nhiệm vĩ đại. Lịch sử cho thấy ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê là những tấm gương sám hối suốt Mùa Chay dẫn chúng ta tới Đại lễ Phục Sinh, khi chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của tinh thần trên thể xác, của ơn cứu chuộc trên tội lỗi.

Thánh sử Marcô nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cao cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện... bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia.... Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình :

1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình ?
2. Tại sao Môise và Êlia lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?
3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi ?

Tại sao Đức Giêsu Biến Hình ?

Chúng ta biết, trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6, 30-44 ; 8, 1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.

Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?

Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, Phêrô được chọn, vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là “Ðức Kitô” (x. Mc 8, 29). Hơn nữa, cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21, 17). Phần Gioan, vì đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là “người môn đệ Chúa yêu” (Ga 21, 20). Còn Thánh Giacôbê, là vì ​​phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: “Chúng tôi có thể uống chén của Thầy” (Mt 20, 22), ông giữ lời và đã đi đến cùng điều ông cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.

Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?

Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về Người. Có kẻ cho Người là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác cho là Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x. Mc 8,28).

Người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa, không thuộc về Người. Trong lúc biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Người khẳng định mình còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta rằng Người là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Người biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.

Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, Phêrô đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.

Đức Giêsu biến hình để cho chúng ta được chiêm ngưỡng :

Vinh quang Ba Ngôi

Vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong biến cố Chúa biến hình. Chúa biến hình là hình ảnh loan báo trước cho biến cố Chúa Phục Sinh. Chúa mạc khải vinh quang mình cho các tông đồ với lời xác nhận của Thiên Chúa Cha: “Ðây là Con Ta Yêu Dấu!” (Mc 9, 7). Trong ánh sáng vinh quang, chúng ta nhìn thấy ánh sáng; và được Chúa Thánh Thần nâng lên, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi qua mọi muôn thế hệ .

Lắng nghe lời Đức Giêsu

Trong biến cố Chúa biến hình, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn vừa đi từ ánh sáng này sang ánh sáng khác, mà còn được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa gửi đến. Ngoài Lề Luật nơi ông Môisen và lời tiên tri nơi sứ ngôn Êlia, lời Chúa Cha còn vang lên mời gọi chúng ta “vâng nghe lời Người” (Mc 9, 8).

Xin ơn biến đổi

Nhìn xem và lắng nghe, chiêm ngắm và vâng phục, là những con đường dẫn chúng ta lên Núi Thánh. Ở đó, Ba Ngôi Thiên Chúa được mạc khải trong vinh quang của Chúa Con.

Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Người.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta cũng biết biến đổi : biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

NGHỆ THUẬT LÀM CHA MẸ

NGHỆ THUẬT LÀM CHA MẸ

Chúng ta thường được giáo dục để trở nên những đứa con tốt trong gia đình, nhưng rất ít khi chúng ta được giáo dục để trở nên những cha mẹ tốt. Ở trường học, chúng ta học rất nhiều môn, nhưng không môn nào dạy ta nghệ thuật làm cha mẹ, là nghệ thuật mà ta phải áp dụng suốt cả cuộc đời kể từ khi có con, đồng thời cũng là một nghệ thuật hết sức quan trọng cho hạnh phúc của ta cũng như cho tương lai con cái ta. Vì thế, đa số nhân loại khi lên làm cha mẹ đã không biết phải đóng vai trò đó thế nào cho sáng suốt. Thường thì chỉ khi đã làm cha mẹ chúng ta mới bắt đầu học nghệ thuật ấy, học theo kiểu nghề dạy nghề, tự học, học cách mò mẫm, phải tự suy nghĩ để tìm ra phương pháp. Cũng có những sách nói về nghệ thuật này, nhưng không nhiều.
Trong ý hướng giúp các bậc cha mẹ nắm vững hơn nghệ thuật này, chúng tôi xin đưa ra một số suy tư hay ý kiến góp phần xây dựng. Sau đây là 10 đề nghị, hay nói khác đi là 10 điều tâm niệm của các bậc cha mẹ.

1.      Đã là người đương nhiên bất toàn
Ngoài Thiên Chúa ra, không có ai hoàn hảo cả. Vì thế, ta đừng đòi hỏi con cái ta phải hoàn hảo, phải làm ta hài lòng. Chính ta, trong quá khứ cũng như hiện tại, ta có hoàn toàn làm hài lòng cha mẹ ta đâu ! Chính ta cũng bất toàn. Tuy nhiên, vì tính cách sư phạm, ta có thể tỏ ra đòi hỏi con cái chút ít để chúng cố gắng hơn. Cùng là thân phận con người yếu đuối như nhau, ta nên thông cảm với những tật xấu, những khuyết điểm của con cái. Ta phải tập biết hài lòng về những cố gắng của con cái mình, về mức độ tốt đẹp mà chúng đã từng nỗ lực để đạt được.

2.      Đừng kỳ vọng về con cái quá mức
Ai cũng có giới hạn của mình, dù có cố gắng lắm cũng khó vượt qua giới hạn ấy. Điều quan trọng là biết được đâu là giới hạn của con cái mình để tôn trọng giới hạn đó, để đặt ra mục tiêu thích hợp bắt chúng đạt tới. Thông thường, khi có con, ai cũng kỳ vọng con mình phải thành người thế này thế kia. Ta mong con ta hơn ta, và saün sàng hy sinh tất cả để con ta đạt được những gì ta kỳ vọng nơi chúng. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, những kỳ vọng đó vượt quá khả năng thực hiện của chúng. Có thể chúng không có nhiều tài năng và nghị lực bẩm sinh như ta, có thể chúng có khuynh hướng khác với ta. Ta không nên lấy mình làm khuôn mẫu để ép con cái phải như mình. Đặt lý tưởng quá cao cho con cái dễ làm cho chúng có mặc cảm tự ty và buồn phiền nếu chúng không thể đạt tới được, đồng thời dễ làm ta thất vọng và chán nản về chúng.

3.      Chấp nhận con cái, cầu nguyện cho chúng
Chấp nhận con cái không có nghĩa là không bắt chúng nỗ lực để nên tốt đẹp hơn, mà là chấp nhận mức độ chúng đạt được sau khi ta đã nỗ lực tạo đủ mọi điều kiện để chúng tốt đẹp hơn và chính chúng cũng đã cố gắng. Đừng ép con cái mình phải giống hay bắt chước một trẻ em khác : trên đời này không thể có hai đứa trẻ giống nhau. Để chấp nhận trẻ, ta phải biết đặt mình vào địa vị của trẻ và nhìn theo quan điểm của chúng. Đừng bắt chúng nhìn theo quan điểm của ta. Tích cực hơn, ta nên cầu nguyện cho chúng, xin Thiên Chúa ban thêm sức mạnh để chúng có khả năng cố gắng nhiều hơn nữa. Chỉ có Thiên Chúa mới có khả năng biến đổi tâm hồn chúng.

4.      Dành thì giờ để đối thoại với con cái
Nên bỏ ra mỗi ngày ít nhất 15 hay 30 phút để tiếp xúc với con cái, để nói chuyện, tìm hiểu chúng, trao đổi tư tưởng, cảm nghĩ và tâm tình với chúng. Giờ rất thuận tiện là các bữa ăn. Phải lắng nghe chúng nói, khuyến khích chúng bày tỏ những điều chúng nghĩ trong đầu, chứ không phải chỉ biết bắt chúng nghe mình thôi. Đồng thời phải biết phản ứng kịp thời và thích hợp với những gì chúng biểu lộ : vui, buồn, ngạc nhiên, sửa sai, bất đồng, tán thành, khuyến khích... Phải luôn luôn nắm được tư tưởng và ý muốn của chúng. Phải tập trò chuyện với chúng như với bạn bè, nhất là khi chúng đã lớn, khoảng 10 tuổi trở lên. Đừng để chúng hư lúc nào ta không biết.

5.      Cố gắng tạo quan hệ tình cảm với con cái
Con cái ta rất cần được yêu thương, khuyến khích, hỗ trợ để chúng có thể phát triển. Do đó, ta phải làm sao để chúng cảm nhận được tình thương của ta. Cần phải biểu lộ tình thương của ta ra bên ngoài, qua ánh mắt, qua những cử chỉ âu yếm, những lời nói ngọt ngào, những hy sinh cụ thể và thường xuyên của ta. Càng nhỏ, chúng càng nhạy cảm với tình thương của ta. Chúng cần tình thương để lớn lên và phát triển cũng như cần cơm bánh. Đừng dấu tình thương trong lòng mà phải biểu lộ ra ngoài. Đừng chỉ yêu thương bằng khối óc dù rất cần thiết, mà còn phải yêu thương bằng con tim nữa.

6.      Phải làm sao cho con cái tin tưởng nơi ta
Trẻ cảm thấy cần được bảo đảm tốt đẹp về mọi phương diện : vật chất cũng như tinh thần. Chúng mong tìm được những bảo đảm đó nơi cha mẹ chúng. Vì thế, ta phải trở nên chỗ dựa vững chắc cho chúng về mọi mặt. Phải sống làm sao để chúng có thể cảm thấy an tâm : mọi lời ta nói phải đúng để chúng tin tưởng, mọi việc ta làm phải tốt để chúng bắt chước. Phải làm sao để chúng tin vào tình yêu, sự thành thật, khả năng hy sinh và sự cao thượng của ta. Ta muốn con cái ta tốt tới mức nào thì ít ra ta phải sống tốt tới mức đó. Hành động của ta - tốt hay xấu - ảnh hưởng tới con cái ta tới mức độ ta không ngờ.

7.      Đồng hành với con cái trên đường tiến tới hoàn mỹ
Tuy nhiên ta không nên tự thần tượng hóa mình trước mặt con cái. Tới một lúc nào đó ta phải cho chúng thấy rằng chính ta cũng là người bất toàn đang nỗ lực tiến tới trưởng thành, hoàn thiện và nên thánh. Ta chỉ là người đi trước có nhiệm vụ dẫn dắt chúng trong những bước đầu cuộc đời chúng, đưa chúng đi vào đời sống thần linh (với Thiên Chúa) và nhân bản (với bản thân và người khác). Và sau này chính ta cũng nên saün sàng nhận lại sự nâng đỡ của chúng. Cần phải khiêm tốn nhận những khuyết điểm của chính mình. Trên đườøng tiến tới hoàn thiện, ta hãy biến chúng thành những người bạn đồng hành và cho phép chúng được coi lại ta như thế, đồng thời chấp nhận sự xây dựng của chúng. Như thế chúng sẽ tự tin và dễ trưởng thành hơn.

8.      Phải tôn trọng phẩm giá của con cái
Con cái ta là người, chúng có quyền và rất cần được đối xử như những con người, như con cái của Thiên Chúa. Đừng xử với chúng như nô lệ hay đầy tớ trong nhà. Hãy tôn trọng tự do của chúng, đừng cấm đoán chúng những gì ta xét thấy vô hại. Cũng nên tôn trọng giờ làm việc, giờ ngủ và thì giờ của chúng một cách vừa phải. Nếu cần phải sửa phạt thì nên sửa phạt đúng mức, hợp lý, đừng đánh đập chúng quá đáng hoặc chửi rủa chúng những câu thậm tệ, như Đồ quỉ!Đồ chó má!Con đĩ!, xúc phạm tới phẩm giá hoặc làm tổn thương tự ái chúng quá mức cần thiết. Đừng bêu xấu con trước mặt người khác hoặc những trẻ em khác. Có tôn trọng chúng thì chúng mới biết tự trọng và tự tin.

9.      Khai phóng cho con cái
Khi còn nhỏ, con cái ta lệ thuộc ta mọi mặt. Lúc đó, ta phải bắt chúng vâng lời, làm theo ý ta để chúng đi đúng đường. Nhưng ta phải huấn luyện và giáo dục chúng làm sao để dần dần chúng trưởng thành, có khả năng tự do và tự lập về mọi mặt. Đừng bắt chúng cứ phải lệ thuộc ta mãi, cứ phải theo ý muốn của ta hoài. Đó cũng là cách để ta tự giải phóng chính mình. Nên ý thức rằng con cái ta không phải là của ta mãi, mà là của cuộc đời. Muốn chúng lệ thuộc ta mãi đó là ý muốn của những cha mẹ còn non nớt. Cần phải biết biến chúng thành những người bạn mà xét về nhiều mặt là ngang hàng với mình. Có như thế chúng mới dễ phát triển và trưởng thành.

10.    Trao cho chúng trách nhiệm
Phải tập cho con cái tinh thần trách nhiệm ngay từ hồi chúng còn nhỏ bằng cách trao cho chúng những trách nhiệm từ dễ đến khó, từ nhỏ đến to trong gia đình. Phải tập cho con cái dần dần quán xuyến được mọi việc. Và khi chúng đã lớn, khoảng 20- 25 tuổi, phải tập cho chúng làm những công việc có tầm vóc xã hội : làm ăn, giao thiệp, nhận trách nhiệm nghề nghiệp, điều hành công việc... Phải tập cho chúng làm được hầu hết những công việc của mình, thậm chí có thể thay thế mình trong địa vị của mình.

Hãy bắt chước các nhà vua của ta ngày xưa biết nhường ngôi cho con ngay khi chúng tạm đủ tư cách thay thế mình giải quyết mọi việc, còn mình thì đứng đằng sau hướng dẫn, cố vấn, làm thái thượng hoàng. Tại nhiều nước đang phát triển mạnh, các giám đốc công ty, xí nghiệp, thậm chí các bộ trưởng... đa số thuộc giới trẻ (25- 40 tuổi) rất năng nổ hoạt động. Người ta không sợ họ đi quá lố vì đằng sau những người trẻ ấy còn có cha mẹ của họ cố vấn, chỉ đạo và hỗ trợ họ. Nhờ vậy, đất nước của họ tiến bộ rất mau.

Trong gia đình, chúng ta cũng nên sớm giao trọng trách cho con cái đang khi chúng ta còn có thể đứng sau để hướng dẫn giúp đỡ. Đừng để tới lúc ta không còn làm được gì nữa mới nhường trách nhiệm cho chúng. Tới lúc đó chúng mới tập sự làm việc thì đã hơi muộn, nên sẽ ít hữu hiệu và mắc nhiều sai lầm.

Kết luận
Thế hệ con cái của chúng ta có đức hạnh và tài năng hay không tùy thuộc vào sự giáo dục chúng nhận được từ cha mẹ chúng rất nhiều. Vì thế, ta cần phải giáo dục chúng một cách khôn ngoan sáng suốt. Đừng phó mặc công việc quan trọng này cho may rủi, cũng đừng làm một cách tùy tiện, thiếu suy nghĩ. Hãy lắng nghe thế hệ của chúng ta đang lên tiếng : Hãy giáo dục chúng tôi cho tử tế, chúng tôi sẽ biến xã hội và thế giới này thành thiên đường. Và một điều rất quan trọng là hãy cầu nguyện cho chúng, xin Thiên Chúa chúc lành, bảo vệ và thánh hóa 

Mười Ðiều Răn dành cho người lái xe theo tinh thần Kitô.

Mười Ðiều Răn dành cho người lái xe theo tinh thần Kitô.

Bạn hãy bắt đầu cuộc hành trình với lời cầu nguyện, và Bạn hãy kết thúc chuyến đi với lời cầu nguyện. Ðó là "điều răn thứ nhất và thứ mười" trong số 10 điều răn dành cho những người lái xe, do Hiệp Hội Quốc Tế về Sự An Toàn Trên các Ngả Ðường, có trụ sở tại Luân Ðôn, Anh Quốc, phổ biến mới đây. 

Hiệp hội nầy đã được thành lập cách đây 60 năm, và hiện có những thành viên tại các nước như Hoa Kỳ, Canada, Úc Châu, Tân Tây Lan và một số quốc gia bên Phi Châu, Trinité-Tobago, Bahamas, với tổng số thành viên là 16,000. Hiệp Hội quốc tế của những người lái xe nầy, nhằm phổ biến những ấn phẩm nói về những dịch vụ lo cho sự an toàn trên các ngả đường. Hiệp Hội cũng nhằm đưa ra những lời khuyên thiết thực, nhằm giúp cho các thành viên, tức những người lái xe, biết cách sống đức tin của mình khi lái xe. Sau đây là 10 "điều răn" cho những người lái xe theo tinh thần Ðức Kitô:

1. Hãy bắt đầu cuộc hành trình với lời cầu nguyện.

2. Nếu bạn đi trễ, thì sẽ đến trễ.

3. Rượu không phải để cho người lái xe dùng.

4. Nếu người lái xe kia nhường cho bạn nhập vào đường xe, thì bạn hãy ra dấu cám ơn người đó.

5. Nếu bạn lỡ cản trở lưu thông của xe khác, thì hãy ra dấu xin lỗi.

6. Bạn hãy nhường đường cho những tài xế vội vả, lấn lấy đường xe, để họ vượt qua bạn.

7. Bạn hãy lái xe làm sao, để khi gặp một xe cảnh sát bất ngờ xuất hiện, thì bạn vẩn bình tỉnh.

8. Bạn hãy nhường khoảng cách đầy đủ cho những xe taxi và những xe có kéo theo xe phụ.

9. Bạn đừng bao giờ gia tăng tốc độ, mà ngược lại, hãy giãm tốc độ khi cần, khi người lái xe kia muốn lấn vào đường xe của bạn.

10. Bạn hãy kết thúc cuộc lái xe với lời cầu nguyện.

Ðó là những điều luật giúp những người lái xe giữ an toàn cho chính mình và cho kẻ khác. Nguyên tắc chung và căn bản nhất là biết nhường nhịn, và có thái độ lễ phép cả khi lái xe. Ngoài bản 10 điều răn trên, thì còn có những bản văn giúp cho người lái xe cầu nguyện trước và sau khi lái xe. Những bản văn giúp cầu nguyện nầy nhắc cho những người lái xe về những nguy hiễm, có hại cho sự an toàn trên đường, mà họ cần phải loại bỏ ra khỏi thái độ sống khi lái xe. Ðó là những nguy hiểm sau đây: lối lái xe muốn thống trị vượt hơn kẻ khác, sự ham thích tốc độ nhanh, sự nô lệ cho thời giờ, và việc uống rượu. Nếu ra đi trễ, thì phải chấp nhận đến trễ. Do đó, đừng hấp tấp vội vàng. Ðừng lấn đường xe của kẻ khác. Cần sống đức tin, cả trong việc lái xe. Ðó là điều mà Hiệp Hội Quốc Tế những người lái xe nhắm đến, khi cho công bố 10 điều răn cho người lái xe theo tinh thần Ðức Kitô.







ĐỪNG QUÊN MẢNG TỐT NƠI MỖI NGƯỜI

Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn! (Mc 8,31)

Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?

Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh hiển của Ngài, lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói sao! Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ như thế nào đây?

Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Ngài đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).

  • Củng cố tâm hồn ba môn đệ

Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Ngài đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su.” (Mc 9, 2-4)

 Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”

“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.” (Mc 9,5-7)

Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Ngài trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gio-an vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn. 

  • Hai mảng sáng - tối của đời người

Đời người thường có hai mảng sáng - tối đan xen nhau: có lúc thịnh thì cũng có lúc suy; có khi thành công cũng có khi thất bại, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.

Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mảng sáng, mảng tối. Mảng sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao; mảng tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm... Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mảng đen tối, u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính yếu đuối của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới, đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mảng sáng của Ngài trên núi cao, không thấy cuộc phục sinh vinh hiển của Ngài, thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng và sẽ đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh? Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?

Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy mảng sáng của Ngài trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của mình, tỏ cho họ thấy Ngài là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi suy sụp khi chứng kiến cuộc khổ nạn đau thương sắp đến của Ngài. 

  • Đừng quên mảng tốt

Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền xinh đẹp của nó, người ta sẽ thất vọng về nó.

Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải phản ánh vinh dự của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.

Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì người ta sẽ xem thường nó.

Đối với người chung quanh cũng thế. Cuộc đời mỗi người đều có mảng sáng và mảng tối. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mảng đen tối của một con người, mà quên đi mảng sáng tươi tốt đẹp trong đời họ; nếu chỉ nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ thất vọng về người đó.

Lạy Chúa Giê-su,

Nhờ chứng kiến cuộc hiển dung vinh hiển của Chúa trên núi cao, các môn đệ cảm thấy vững tâm hơn khi đối diện với cuộc khổ nạn đau thương của Chúa;

Nhờ nhìn ngắm vẻ đẹp của những đoá hoa hồng, người ta mới dễ dàng chấp nhận những gai nhọn đáng phàn nàn của nó;

Xin cho chúng con, trong tương quan với tha nhân, cũng biết nhìn vào mảng sáng, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những điều đen tối xấu xa nơi họ.

Nhờ đó, chúng con sẽ thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của chúng con với mọi người sẽ được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng con với nhau sẽ hạnh phúc hơn.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà