1 Đức Giê-su bỏ nơi đó, đi tới miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan. Đông đảo dân chúng lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại dạy dỗ họ.2 Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không? " Họ hỏi thế là để thử Người.3 Người đáp: " Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì? "4 Họ trả lời: "Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ."5 Đức Giê-su nói với họ: "Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông.6 Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ;7 vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình,8 và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.9 Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly."10 Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy.11 Người nói: "Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình;12 và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình."
SUY NIỆM
Hôn nhân truyền thống vẫn còn nguyên và chẳng có gì thay đổi được nó, vì vốn dĩ chẳng có hình thức hôn nhân nào mang đến sự hoà hợp trọn vẹn như chính nó. Nhưng thời nay, hôn nhân truyền thống không còn giữ được vị thế độc tôn của nó nữa. Vì sao?
Đi tìm câu trả lời cho vấn nạn này quả là không đơn giản, nên người ta giản đơn nó rồi tự phong là chủ thuyết hay là đường hướng cách mạng trong hôn nhân…vv…Theo suy nghĩ cá nhân tôi, thật là một sự mù quáng của hệ luỵ đổ vỡ thê thảm của nội tâm con người.
Để giải quyết vấn đề này, ai sẽ đứng ra chấp nhận bị ném đá đây? Có lẽ, người ta chỉ bàn thôi chứ chẳng nghĩ tới phải hành động cụ thể ra sao. Trên bình diện tôn giáo, hôn nhân nói chung và công giáo nói riêng có những tính chất và luật lệ rõ ràng, nhằm giúp con cái mình không lạc mất điều căn bản. Công giáo vẫn cổ suý hôn nhân do Thiên Chúa kêu gọi và là một lời mời gọi đáng trân trọng. Vì là lời mời gọi, nên hai người tự do đáp trả, tự nguyện dâng hiến và tự nguyện kết ước thông qua Bí Tích Hôn Nhân. Nhưng đây không là giờ học giáo lý hôn nhân, càng không phải là bài viết thần học về bí tích hôn phối, thế nên, xin không đi sâu mà chỉ xin gợi ý để suy niệm Tin Mừng hôm nay.
Câu hỏi: Người ta có được phép ly dị vợ mình không? Đây là câu hỏi mang tính thời sự. Vốn dĩ, thời nay, có quá nhiều người ly dị và sau đó tái hôn. Vấn đề đặt ra là liệu người đó có chắc, cuộc hôn nhân này đã là cuối cùng chưa? Mà nếu có, thì liệu họ có chắc những gì đã xảy ra trong cuộc hôn nhân đầu sẽ không tái diễn trong cuộc hôn nhân sau? Mà nếu không, vậy đây chưa phải là cách thể hiện của một người trưởng thành về mặt tình cảm và tình yêu? Có ai dám đến với anh, với chị, khi mà họ biết mình sẽ là nạn nhân như người đầu tiên? Mà nếu như vậy, hôn nhân đó có thật đến từ tình yêu chân chính hay chỉ đơn thuần là nhục dục? Mà nếu một người chỉ biết thoả mãn thân xác thì với cái nhìn của tâm lý, người đó có bệnh, chứ không bình thường? Câu hỏi này phải chăng là thừa?
Chúa Giêsu đã tái khẳng định và kiện toàn hôn nhân truyền thống: duy nhất và bất khả phân ly. Đứng trên lập trường của Moisê, có thể ông bị ép phải cho phép, nếu không, ông sẽ bị ném đá. Trên bình diện tâm lý, khi một ngượi bị ép buộc, không có đầy đủ sự tự do thì những gì người ấy làm không được quy trách, hay nói cách khác, Chúa Giêsu biện hộ cho Môisê vì sự sai sót của ông, đúng như Chúa Giêsu nói: Tôi đến không phải để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn. Luật của Môisê vẫn chưa là luật hoàn thiện nên vẫn cần phải kiện toàn. Không ai có quyền làm chuyện đó ngoài Thiên Chúa, vì luật về hôn nhân không phải do con người thiết lập mà do chính Thiên Chúa kêu gọi và chúc lành, thánh hoá và chỉ định: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”. Đây là luật của Thiên Chúa. Chúng ta gọi là Thiên Luật.
Con người đã từ lâu đặt Thiên Chúa khỏi mình và muốn tự mình chon lựa và quyết định mọi sự của mình. Đây là sự tự do vô ngã. Vì nếu có bản ngã thật sự, người ta cần biết đến từ đâu và đi đâu, về đâu chứ? Nguyên nhân của mọi nguyên nhân là gì? Tại sao người ta muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời sống hôn nhân? Hôn nhân mang tính bí tích không thể huỷ bỏ, vậy chỉ cần loại trừ Đấng bảo vệ và kiện toàn hôn nhân? Tất cả xuất phát từ tình yêu ích kỷ của con người. Do hậu quả của tội lỗi, người ta bị gây xáo trộn trong chính bản ngã của mình, để rồi bị đổ vỡ và gây tổn thương cho người bên cạnh.
Tóm lại, chỉ trong Thiên Chúa, chúng ta mới thực sự tìm lại bản thân, tìm lại cứu cánh và bảo vệ tình yêu trọn vẹn của mình dành cho nhau. Như thế, chúng ta hãy xây dựng lại ý thức trong việc tôn trọng bản thân, người khác và trong sự kính sợ Thiên Chúa. Còn bằng không, dù có làm gì đi nữa, chúng ta cũng vẫn phải chịu tổn thương do người bên cạnh mang lại, hoặc do chính chúng ta tự gây ra cho mình và cho người. Hướng về hôn nhân bền vững và hạnh phúc, chúng ta được mời gọi nên thánh trong vai trò và bậc sống của mình. Mình nên thánh, có nghĩa những người bên cạnh cũng nên thánh. Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo. Không có gì tốt hơn một lời xây dựng chân thành và cũng không gì ý nghĩa cho bằng khi nhìn thấy một gương sáng đi đôi với lời nói. Vì thế, hôn nhân đích thực không loại trừ thập giá mà đi liền với thâp giá, vì mỗi người là thách đố của nhau. Hơn nữa, nếu hôn nhân là lời mời gọi thì tất yếu cần đáp trả mỗi ngày, và canh tân mọi lúc, mọi nơi.
Xin cho chúng ta biết canh tân, học hỏi, từ bỏ ích kỷ, để tìm thấy sự nâng đỡ và những điểm chung với nhau. Nhờ đó, hôn nhân công giáo thực sự trở thành nơi nhận lãnh và cho đi vô vị lợi của tình yêu chân chính.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
Ơn sủng và lề luật

I. LỜI CHÚA: Mc 10, 1-12
1
Đức Giê-su bỏ nơi đó, đi tới miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan.
Đông đảo dân chúng lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại
dạy dỗ họ.
2
Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng: “Thưa Thầy,
chồng có được phép rẫy vợ không? ” Họ hỏi thế là để thử Người.3 Người
đáp: ” Thế ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì? “4 Họ trả lời: “Ông
Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ.”5 Đức Giê-su nói với họ:
“Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó
cho các ông.6 Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm
nên con người có nam có nữ;7 vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn
bó với vợ mình,8 và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ
không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.9 Vậy, sự gì Thiên
Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.”
10
Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy.11 Người nói: “Ai
rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình;12 và ai
bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình.”
(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV)
Như
chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng, rất quen thuộc đối với chúng ta,
một số người Pharisiêu đến hỏi Đức Giêsu: “chồng có được phép rẫy vợ
không?” Ngày nay, cả hai vợ chồng đều được mời gọi chia sẻ bổn phận lo
cho đời sống gia đình, tùy theo khả năng và hoàn cảnh; vì thế, câu hỏi
này phải được nói lại là: vợ chồng có được phép bỏ nhau không? Bởi vì,
ngày nay, người vợ cũng có thể chủ động bỏ chồng của mình!
II. SUY NIỆM:
1. Họ hỏi như thế là để thử Ngài
Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không? ” Họ hỏi thế là để thử Người. (c. 2)
Theo
lời kể của tác giả Tin Mừng, những người Pha-ri-sêu hỏi như thế là để
thử Đức Giê-su. Thử, nghĩa là đặt người khác vào trong một tình huống
khó khăn, để xem người này có nói sai hay hành động sai hay không nhằm
kết án, loại trừ, “sa thải”. Thử ở đây tương đương với hành động giăng
bẫy.
Và
câu hỏi của những người Pharisiêu thực sự là một cái bẫy chết người;
thực vậy, nếu Ngài trả lời không được phép, Ngài sẽ nói ngược với Luật
Môsê; nếu trả lời được phép, Ngài sẽ trở thành người đồng lõa với tệ nạn
lạm dụng sự cho phép của Lề Luật để rẫy vợ bừa bãi.
Các
Tin Mừng nói với chúng ta rằng những người Pharisiêu nhiều lần đến hỏi
để thử Đức Giêsu; và đủ nhiều để chúng ta có thể kết luận rằng, đây một
trong những đặc điểm trong cách hành xử của họ, hay nói cách khác, họ có
“cái thú” dò xét, giăng bẫy nhằm tố cáo tội của người khác, và nếu dò
xét và giăng bẫy không ra tội, họ sẽ vu cáo. Thế mà, theo sách Khải
Huyền, “Kẻ Tố Cáo” là một tên gọi khác của Satan:
Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ,
giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền,
và Đức Ki-tô của Người
giờ đây cũng biểu dương quyền bính,
vì kẻ tố cáo anh em của ta,
ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa,
nay bị tống ra ngoài.
(Kh 12, 10)
giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền,
và Đức Ki-tô của Người
giờ đây cũng biểu dương quyền bính,
vì kẻ tố cáo anh em của ta,
ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa,
nay bị tống ra ngoài.
(Kh 12, 10)
2. Sự Dữ và Lề Luật
Để
tố cáo, phải dựa vào Lề Luật, nói đúng hơn là phải sử dụng Lề Luật như
phương tiện để dò xét, giăng bẫy; trong khi Luật là “tốt và thánh”,
nghĩa là Luật được ban từ sự sống và cho sự sống. Thánh Phao-lô trong
thư Roma, chương 7, nói rằng, Tội dùng Lề Luật như cái đà để phóng tới
(x. Rm 7, 7-13). Chính vì thế Đức Giê-su buộc họ phải phô bày ra phương
tiện gài bẫy của họ, đó là Luật cho phép rẫy vợ của Môsê: “Môsê đã cho
phép viết giấy li dị mà rẫy vợ” (c. 4; x. Đnl 24, 1). Đặt vào bối cảnh
lịch sử, thực ra Luật này là một tiến bộ, đặc biệt theo hướng tôn trọng
người phụ nữ: thay vì đuổi vợ bừa bãi, thì người chồng phải viết chứng
thư, trao tận tay để nàng có thể làm lại cuộc đời.
Nhưng
Đức Giêsu, một cách thật bất ngờ, mặc khải cho người nghe thực trạng mà
từ đó luật được ban hành, thực trạng mà Đức Giê-su gọi là “lòng chai dạ
đá” của con người. Luật được ban, điều này có nghĩa là “cái xấu”, sự dữ
đã có mặt. Chẳng hạn luật cấm giết người, điều này có nghĩa là người ta
đã giết người trong thực tế! Điều này đúng cho mọi Lề luật, xưa cũng
như nay, đời cũng như đạo.
Như
thế Lề Luật chỉ giới hạn và ngăn cản, như cái đê chắn sóng nước hung
dữ, chứ không thể giải quyết tận căn sự dữ có trong lòng con người, gây
tai hại cho đời sống con người, trong đó có đời sống hôn nhân và gia
đình; hơn nữa, trong thực tế, chính khi nại đến Luật, để biết được phép
hay không được phép, thì giao ước, tình yêu, lòng trung thành, tương
quan hiệp nhất đang bị tổn thương và có nguy cơ rạn nứt và đổ vỡ. Điều
lạ lùng là khi có lề luật, cái xấu không bớt, nhưng lại càng sinh sôi
(x. Rm 7, 7-13), như chúng ta thấy hiện nay trong mọi lĩnh vực, bởi vì
người ta thường lợi dụng lề luật để thực hiện ý đồ xấu của mình.
3. Trở về nguồn gốc: ơn sủng và tình yêu
Đức
Giêsu quan tâm đến cái xấu đang có mặt trong lòng con người, và mời gọi
chúng ta giải quyết tận căn bằng cách trở về với nguồn gốc.
- Ở nguồn gốc, không có lề luật, chỉ có ơn sủng nhưng không tuyệt đối: người phụ nữ là một tuyệt tác của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, ban không cho người đàn ông; và ngược lại, người đàn ông, vốn là tác phẩm đầu tay của Thiên Chúa, được ban không cho người phụ nữ. Người phụ nữ là tuyệt tác, vì được dựng nên từ xương thịt con người, vốn là tinh hoa của sáng tạo; trong khi đó, người đàn ông được dựng nên từ bùn đất, tương tự như loài vật! Vì thế, người phụ nữ được gọi là phái đẹp và tượng trưng cho sự dịu dàng và hiền lành; trong khi đó, phái nam có cùng nguồn gốc với với loài vật, nên gần với thú tính (x. St 2).
- Ở nguồn gốc, là tình yêu hai người dành cho nhau một cách quảng đại và nhưng không, cùng với lời cam kết thuộc về nhau vĩnh viễn, vì cả hai một cách tự do, trở nên “một xương một thịt”.
Nguồn
gốc của sáng tạo là ơn sủng và tình yêu, và ở ngọn nguồn của mỗi đôi
hôn nhân cũng như vậy, cũng là ơn sủng và tình yêu. Bởi vì người con
trai hay người con gái đã làm gì cho người kia, mà người này lại tự
nguyện thuộc về mình suốt đời, tự nguyện cho đi, trao vào tay người kia
cuộc đời mình? Xóa bỏ hay quên đi tình yêu nhưng không ban đầu này, đời
sống hôn nhân sẽ không còn nền móng, và sẽ mau chóng đổ vỡ. Bởi vì, đời
sống hôn nhân không thể chỉ đặt nền tảng trên lề luật, cho phép hay
không cho phép, nhưng đặt nền tảng trên ơn sủng, ơn sủng nhưng không của
Thiên Chúa ban người kia cho mình, ơn sủng nhưng không của người này
trao ban cho người kia; và từ đó phát sinh lời cam kết vĩnh viễn thuộc
về nhau, cho dù cuộc đời bể dâu.
Vợ
chồng chọn nhau, nhưng còn được mời gọi đón nhận nhau như quà tặng yêu
thương của Thiên Chúa, trong một Giao Ước được Thiên Chúa đóng ấn vĩnh
cửu. Tình yêu và Giao Ước của Thiên Chúa mới là đá tảng vững bền cho đời
sống hôn nhân và gia đình. Bởi lẽ, cảm xúc của chúng ta hay giao động
và không ổn định. Như thế, lời của Đức Giê-su mở ra cho chúng ta con
đường để vượt qua những vấn đề hôn nhân một cách triệt để: không chỉ dựa
trên lề luật để ràng buộc nhau, nhưng loại bỏ ý muốn chia li ngay trong
lòng, dựa trên kinh nghiệm sâu đậm về ân sủng và tình yêu nhận được và
sống bằng tâm tình biết ơn và ca tụng.
* * *
Và
ơn gọi tu trì của chúng ta cũng phải dựa trên một nền tảng như thế,
nghĩa là không thể chỉ dựa trên lề luật liên quan đến đời tu, nhất là ba
lời khấn, nhưng trên kinh nghiệm về Thiên Chúa và tình yêu của Người ở
ngọn nguồn, cũng như trong mỗi ngày sống của đời sống dâng hiến: ở ngọn
nguồn là ơn huệ nhưng không Chúa ban, và chúng ta liều mình đáp lại vĩnh
viễn và qua từng ngày sống, với lòng cảm mến.
Lời
cam kết tình yêu của Thiên Chúa là Chân Lý, nghĩa là luôn luôn đúng,
vì: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136). Lời cam kết của
chúng ta cũng được mời gọi trở nên chân lí, vì chúng ta được dựng nên
theo hình ảnh của Thiên Chúa.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét