Thứ Bảy, 12 tháng 8, 2017

Thư gửi Trinh nữ Clara! (11-08)

Chị thánh kính mến,
Thành phố Assisi bên nước Ý chưa hết xôn xao bàn bán về một chàng thanh niên từ bỏ gia đình để chọn sống trong đời dâng hiến. Bằng đời sống khó nghèo, thánh Phanxicô Assisi xa lánh bạn bè, gia đình, chỉ thích tìm nơi thanh vắng để suy tư, cầu nguyện và lắng nghe sứ mạng Chúa trao. Sau đó cả dân thành thêm ngỡ ngàng một lần nữa về một cô thiếu nữ là chị Clara cũng trọn con đường dâng hiến ở độ tuổi thanh xuân. Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ của chị thánh, em có dịp đọc lại những trang sử thật dễ thương thánh thiện của chị.
Từ khi mở mắt chào đời ngày 16 tháng 7 năm 1194, người ta nói chị chẳng bao giờ khóc, nhưng luôn với nụ cười trên môi. Bởi đó đời sống của chị tỏa nét đẹp của một cô thiếu nữ khiến gia đình chị nhanh chóng nghĩ đến chuyện hôn nhân. Tuy nhiên, tâm hồn chị lúc nào cũng hướng về Chúa, người tình đặc biệt của chị. Từ sớm chị đã âm thầm chọn đời sống nhiệm nhặt để sám hối những tội lỗi của mình. Nhất là khi chị được nghe đây đó về câu chuyện của chàng Phanxicô, nghe chính lời giảng thánh thiện của thánh nhân, chị quyết định dâng mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa.
Dĩ nhiên gia đình chị không đồng ý. Là tiểu thư xinh đẹp đài các trong một gia đình quyền quý, gia đình hy vọng chị có tương lai tươi sáng với vị hôn phu môn đăng hậu đối. Tuy nhiên, Thiên Chúa khóe đổi hướng đời chị. Trong khi gia đình phản đối, chị đã gặp thánh Phanxicô rồi xuống tóc đi tu, mặc áo dòng nâu thô kệch. Sau đó chị được gửi vào sống với các nữ tu dòng Bênêđíctô. Nhanh chóng nhiều chị em phụ nữ khác mộ mến lối sống của chị và họ cùng với chị thành lập một cộng đoàn. Cộng đoàn nhỏ bé ấy dần dà được biết đến với tên Các Chị Em Hèn Mọn. Chị biết không, ở Việt Nam cũng có Dòng chị hiện diện nữa (Dòng Kín Clara), đối diện với Dòng Anh Em Hèn Mọn.
Thời ấy người ta thán phục đến khó tin về lối sống nhiệm nhặt của Hội Dòng chị. Dưới sự hướng dẫn của thánh Phanxicô, Dòng chị sống kỷ luật và chay tịnh khắc khổ theo đúng như Tin mừng đòi hỏi. Thấy thế thánh Phanxicô nhắc chị cần điều chỉnh lối sống khắt nghe này. Ngài nói: “Cơ thể chúng ta không được làm bằng đồng.” Sau này khi Đức Giáo Hoàng thuyết phục chị giảm bớt khắc khổ, chị vẫn cương quyết: “Con cần được tha thứ tội lỗi, nhưng con không muốn miễn giảm trách nhiệm theo Đức Giêsu.”
Là người nữ thánh thiện, chị không cần điểm trang lộng lẫy, không vòng vàng trang sức. Với chị lúc này, những thứ ấy không đẹp bằng chiếc áo dòng xinh xắn, không quý bằng chiếc lúp đội trên đầu. Nhờ cuộc sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, chị lúc nào cũng trở nên người nữ tu hiền hòa dễ mến, dịu dàng đạo hạnh trước Thiên Chúa và người ta. Phải chăng vì thế mà nhanh chóng chị được thánh Phanxicô đề nghị làm bề trên ở tuổi 21. Là bề trên, chị tiếp tục giúp chị em trong Dòng tận tụy cầu nguyện, chăm sóc bệnh nhân và thi hành việc bác ái cho người nghèo và người bị bỏ rơi.
Chúng em tin rằng nhờ cuộc sống thánh thiện khó nghèo ấy mà cuộc đời chị luôn được Chúa ở cùng, hội Dòng chị luôn được Chúa yêu thương. Còn nhớ năm 1234 quân đội tấn công Assisi, đốt phá nhà cửa và tàn sát đàn bà con trẻ. Khi lính tráng đột nhập nhà Dòng, dù đau nặng nhưng chị cố gắng quỳ trước cổng với Mình Thánh Chúa trên tay mà cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để những trinh nữ của Chúa rơi vào tay người vô đạo. Chúa có nhiệm vụ phải cứu. Con đã lấy tình yêu Chúa như sữa mà nuôi dưỡng chị em, nhưng trường hợp này thì con hoàn toàn bất lực, không thể làm gì hơn được.” Và Thiên Chúa không quên đoái thương đến thỉnh cầu của chị: “Ta sẽ luôn gìn giữ họ.” Lúc ấy quân lính sợ hãi chạy toán loạn và cả Thành được bình an.
Em xúc động nghe lại lời chia sẻ của chị: “Tất cả cho Chúa, tất cả vì phần rỗi các linh hồn.” Bởi đó cả cuộc đời chị và các chị em trong Dòng không ngừng theo đuổi lý tưởng ấy. Sau thời gian dài 40 năm làm bề trên, dù nhiều năm trong đau bệnh, lúc nào chị cũng vui vẻ với các chị em trong Dòng, lúc nào chị cũng tin yêu nơi Chúa Giêsu. Ngày 11 tháng 8 năm 1253, nhà Dòng và nhiều người thương xót khi nghe chị xa lìa thế gian để về Thiên Quốc. Rồi với những điều phi thường chị làm vì lòng yêu mến Thiên Chúa, hai năm sau đó Đức Giáo Hoàng Alexandre IV phong thánh cho chị. Đồng thời ngài đặt chị lên hàng các thánh đồng trinh.    
Mừng lễ chị, chúng em ước mong thời đại hôm nay cũng có nhiều bạn trẻ dám dấn thân trong đời dâng hiến. Chúng em cầu nguyện cho Hội Dòng của chị luôn có nhiều chị em bước theo dấu chân thánh thiện của chị. Mừng chị là trinh nữ khôn ngoan đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi. Xin chị cầu nguyện cho từng người chúng em biết vui tươi sống tinh thần khó nghèo, dám theo chân Đức Giêsu trong mọi biến cố của cuộc đời, chị nhé.
Mừng lễ Thánh Clara, Trinh nữ, ngày 11 tháng 08


****************************************************************************
Xem them.

Làm sao các Thánh Sử biết câu chuyện ở Vườn Dầu?

Khi Đức Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trong Vườn Dầu, chỉ có một mình Đức Giêsu ở đó thôi. Bên cạnh Ngài không có ai cả. Các môn đệ thì ngủ say sưa. Vậy thì làm sao các Thánh Sử  biết được Đức Giêsu đã nói gì, làm gì mà ghi lại trong sách Tin Mừng?
Chào bạn,
Câu hỏi của bạn rất hay. Hẳn là bạn đọc Tin Mừng rất kỹ mới phát hiện ra điều này. Câu hỏi của bạn xoay quanh tính khả tín của đoạn Tin Mừng liên quan đến câu chuyện Đức Giêsu cầu nguyện ở Vườn Dầu trước khi bước vào cuộc Thương Khó. Hay nói cách khác, liệu những gì Thánh Sử mô tả liên quan đến đêm đó là có thực không, có đáng tin không, vì rõ ràng ngoài Đức Giêsu ra, chẳng ai chứng kiến cả; liệu rằng các Thánh Sử có “bịa” ra câu chuyện này không?
Theo Tin Mừng, sau khi dùng bữa tối, Đức Giêsu cùng các ông lên núi Ô-liu, gọi là vườn Giêtsemani. Sau đó, Đức Giêsu và ba môn đệ yêu dấu (Phê-rô, Giacobe và Gioan) tách riêng ra khỏi nhóm còn lại (x.Lc 22,40-41; Mt 26,36-37; Mc 14,32-33). Lúc này, Đức Giêsu cảm thấy buồn rầu xao xuyến và chia sẻ với ba ông này: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được.” Sau đó, Người đi xa hơn một chút để cầu nguyện với Chúa Cha. Trong lúc này, các môn đệ đã ngủ say sưa, chẳng biết gì, đến độ sau khi cầu nguyện xong Đức Giêsu đã gọi các ông dậy và trách: “Anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?” Người lại đi riêng ra để cầu nguyện lần nữa. Khi trở lại thì Người thấy các ông vẫn còn ngủ. Lần này, Người để mặc các ông ngủ mà đi cầu nguyện lần thứ ba. Sau đó, Người quay lại, thấy các ông vẫn còn ngủ thì đánh thức các ông dậy vì Người biết rằng giờ của Người sắp đến. Ngay sau đó, Giu-đa dẫn quân lính đến. Đức Giêsu bị bắt và dẫn đi. Trong các thánh sử viết Tin Mừng, không có người nào đến gần Đức Giêsu vào thời gian này cả. Chỉ có Gioan là một trong ba người được Đức Giêsu đưa đi riêng, nhưng Tin Mừng của ông lại không thuật lại chi tiết này. Thế thì, dựa vào đâu mà Mathêu, Marco và Luca biết được chi tiết này mà ghi lại trong Tin Mừng của mình?
Có người ngay lập tức trả lời rằng “do Thánh Thần linh hứng vì Kinh Thánh được viết dưới sự soi sáng của Thánh Thần mà”. Nhưng Thánh Thần không linh hứng theo kiểu đọc lại để Thánh Sử viết, như kiểu ta đọc chính tả. Thánh Thần gợi hứng từ những gì Thánh Sử biết và tìm tòi. Bởi thế, Thánh Sử sẽ không thể nào viết lại Tin Mừng nếu không có một căn cứ mang tính lịch sử nào đó. Thật ra thì không có một sử liệu chắc chắn nào cho chúng ta biết cách chính xác. Tuy nhiên, dựa trên những gì có được, chúng ta có quyền đưa ra một vài phỏng đoán. Điều đầu tiên có thể được nói đến chính là việc Đức Giêsu đã kể lại điều này sau khi Ngài đã phục sinh. Đây là điều ta có thể đoán được. Rất có thể trong những lần trò chuyện sau phục sinh, Đức Giêsu đã chia sẻ cho các môn đệ của mình biết về cuộc chiến thiêng liêng mà Ngài đã trải qua trong Vườn Dầu. Nhờ đó mà các ông có chất liệu để viết lại Tin Mừng. Dĩ nhiên là các Thánh Sử đã viết lại dưới sự soi sáng của Thánh Linh để câu chuyện này không đơn thuần chỉ là lịch sử nhưng còn mang dụng ý thần học nữa.
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể phỏng đoán theo hướng khác. Tin Mừng đầu tiên được viết ra là Tin Mừng Marco. Tin Mừng Mathêu và Luca được cho là đã dựa vào Tin Mừng Marco để viết. Theo tương truyền, Marco là môn đệ của Phêrô. Phêrô lại là một trong ba chứng nhân tại Vườn Dầu. Ít ra, Marco cũng có thể biết được đôi điều qua lời kể của Phêrô trước khi viết Tin Mừng của mình. Tin Mừng thuật lại rằng, sau lời cầu nguyện lần thứ hai của Đức Giêsu, Ngài “quay lại, thấy các ông đang ngủ, liền nói với ông Phêrô” (x.Mt 26,40). Ta không biết các môn đệ khác lúc đó ngủ hay thức, nhưng hẳn là Phêrô phải tỉnh giấc thì Đức Giêsu mới có thể nói với ông được. Có lẽ sau này, khi nhìn lại kinh nghiệm vào đêm hôm đó, Phêrô có thể đoán được là Thầy mình đang phải trải qua những giây phút kinh khủng như thế nào, rằng Ngài đang phải chiến đấu ra sao trước giờ phút sinh tử này. Những biểu hiện về sự buồn phiền, lo lắng và đấu tranh của Đức Giêsu đã có trước đó, ngay tại bàn tiệc cuối cùng. Qua những biểu hiện đó, Phêrô có thể biết chắc rằng Thầy của mình vào giờ phút đó hẳn là đang cầu nguyện liên lỉ, và với thói quen, Phêrô cũng biết rằng Giêsu chỉ có thể chạy đến với Cha trong những lúc đau khổ cùng cực, chứ không thể làm điều gì khác. Trong cuộc trò chuyện với Cha, Giêsu chia sẻ nỗi buồn phiền của mình nhưng vẫn một lòng vâng theo những gì Cha để cho xảy đến với mình. Cuộc Thương Khó mà Giêsu trải qua sau đó đã chứng minh điều này. Bởi thế, tính khả tín của trình thuật liên quan đến việc Đức Giêsu cầu nguyện một mình với Cha trong Vườn Dầu không phải là không có căn cứ.
Trong Kinh Thánh, cũng có nhiều sự kiện khiến ta có thể đặt vấn đề tương tự. Ví dụ như trình thuật về việc Đức Giêsu chịu cám dỗ hay chuyện giấc mơ của Giuse hay của các đạo sĩ đến viếng Hài Nhi Giêsu. Về mặt sử tính, ta có quyền phỏng đoán rằng chính các đương sự này đã kể lại kinh nghiệm mà mình trải qua, hoặc họ đã có biểu hiện gì đó khiến các nhân chứng đi đến kết luận này. Đức Giêsu có thể đã kể lại kinh nghiệm bị cám dỗ của mình cho các môn đệ hoặc ít ra, Ngài đã biểu lộ kinh nghiệm này trong suốt đời sống của mình và các ông đã nhận ra điều đó. Tương tự, có thể Thánh Giuse đã chia sẻ câu chuyện được báo mộng của mình với Đức Maria và Maria đã chia sẻ nó cho các môn đệ; các đạo sĩ có thể đã chia sẻ hành trình và dự tính của mình cho Maria và Giuse, làm phong phú hơn kinh nghiệm “suy đi nghĩ lại trong lòng” của Mẹ.
Nói tóm lại, không quá khó để chúng ta truy nguyên về tính chân thực của các trình thuật Tin Mừng qua những phỏng đoán. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải luôn ý thức và tin rằng những gì mà Tin Mừng viết ra đều không có hàm ý lừa dối ta điều gì. Nếu có sự khác biệt một chút về mặt dữ kiện và thời gian thì đó là do dụng ý thần học mà các Thánh Sử nói tới không giống nhau, hoặc thậm chí là có chút sai lầm trong khả năng tri thức giới hạn của Thánh Sử. Thiên Chúa đã làm người và bị giới hạn trong vật chất thì chính Lời Chúa cũng phải hạ mình, chịu giới hạn trong khả năng của con người. Nhưng tính siêu việt của Lời Chúa hàm chứa trong Kinh Thánh không lệ thuộc vào những tiểu tiết này. Khi đọc Kinh Thánh, điều quan trọng là ta có “nghe” được những Lời ấy muốn nói gì với tôi, ngay lúc này và bây giờ không. Bởi thế, thật quý giá nếu bạn không chỉ dừng lại ở việc xác định tính khả tín của trình thuật trong Vườn Dầu, nhưng còn để lòng lắng lại, xem thử đoạn Tin Mừng nói gì với bạn, đụng chạm đến bạn thế nào trong đời sống của bạn, vào đúng khoảnh khắc này đây.
Thân ái,
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét