(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng ')
Đôi khi vẻ đẹp và sự thật đến từ những nguồn mạch không trông đợi. Các bạn sẽ không trông đợi những người trẻ đã sáng tác ra những bản nhạc lừng danh, nhưng một đứa trẻ thiên tài Moza đã làm kinh ngạc những người đồng thời của ông. Và khi Chúa Giêsu xuất hiện trong hội đường Caphanaum không một người nào trông đợi một người bị thần ô uế ám, một người bị quỷ nhập tuyên bố sự thật về Người. Những lời của ông ám chỉ Chúa Giêsu có một chân lý sâu xa: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Hội đường là một nơi chứa đựng một vẻ đẹp và chân lý. Đó là nơi Lời của Thiên Chúa được linh ứng trong những cuốn Thánh Kinh Do Thái đã được tuyên bố và suy niệm ở đây. Một thầy Rabbi giảng dạy ý nghĩa của Thánh Kinh và hướng dẫn cầu nguyện. Từ khi bắt đầu sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã được biết như một thầy Rabbi, một vị kinh sư. Sau đó, mọi người đã nhận biết Người như một tiên tri, không đơn giản là một vị thầy nhưng thật sự là tiếng nói của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu có thói quen đi vào Hội đường vào ngày Sabát. Khi Ngài được chấp nhận vai trò Rabbi, vào những dịp đó Ngài thường làm viên mãn Lời hứa của Môisê khi tuyên bố với toàn dân rằng: “Một tiên tri giống như tôi sẽ là Chúa, Thiên Chúa của anh em, người đó sẽ xuất hiện từ giữa con cháu của anh em; và anh em sẽ phải lắng nghe “Người”.
Khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường Caphanaum, một người bị quỷ ám đã kêu: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” một sự bất ngờ chói tai, kẻ bị quỷ ám đã đưa ra “bài giảng” về sự đồng nhất của Chúa Giêsu. Những gì mà hắn thốt lên là sự thật. Tiếp đó Chúa Giêsu đã xác định việc làm chứng của kẻ bị quỷ ám bằng hành động của Ngài: Ngài đã đuổi quỷ ra khỏi kẻ quỷ ám. Thánh Marco đã ghi lại cho chúng ta câu chuyện đáng chú ý này, Ngài muốn chúng ta hiểu rằng, mục đích đầu tiên của việc xảy ra này không phải để hấp dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu như là một người chuyên làm phép lạ, nhưng hướng dẫn chúng ta thân mật với Người vì Người chính là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã có một nhận định khi Ngài nghĩ rằng người độc thân có thể phục vụ, làm nhiều điều cho Chúa. Nhưng kết hôn hoặc độc thân thì tất cả chúng ta đều được kêu gọi dâng chính mình cho Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Sau đó trong sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã đưa ra một bài giảng trong cùng một Hội đường này ở Caphanaum, Ngài đã hoàn tất lời hứa là Ngài sẽ ban Thân Mình và Máu Mình như thực phẩm, và là của ăn của uống để ban cuộc sống đời đời.
Những tổ phụ đầu tiên của chúng ta trong đức tin đã tiếp tục đi tới hội đường trong những ngày Sabát, tiếp đó, ngày Chúa Nhật họ đã họp nhau để cử hành Thánh Thể tại một nhà nào đó. Khi những người dân ngoại bắt đầu gia nhập Giáo Hội, hội đường phục vụ Thánh Kinh, bài giảng, và cầu nguyện nối kết với hy tế Thánh Thể vào ngày Chúa Nhật. Lời và Bí tích, Thánh Kinh và Thánh Thể trở thành nối kết thân thiết, chúng đã hình thành một sự độc nhất của việc thờ lạy.
Ngày Chúa Nhật chúng ta được đặc ân là thông dự vào hành động này của việc thờ lạy mà bây giờ chúng ta gọi cách đơn giản là Thánh Lễ. Chúa Giêsu vẫn hiện diện với chúng ta trong Lời và trong Bí tích Thánh Thể. Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng “đó là chính Đức Kitô, Người đã nói với chúng ta trong Thánh Kinh, khi Thánh Kinh được tuyên bố trong phụng vụ”. Đó là sự thật Chúa Kitô nói với chúng ta bằng ngôn ngữ của loài người.Giáo Hội nhấn mạnh rằng đó là chính Đức Kitô đã đến với chúng ta trong Thân Mình và Máu Người dưới hình bánh, rượu. Việc rước lễ làm viên mãn lời hứa của Chúa Giêsu trong hội đường Caphanaum rằng Ngài đã cho chúng ta Thịt làm của ăn và Máu làm của uống. Mỗi khi tham dự Thánh Lễ chúng ta được trao cho cơ hội để đến với Chúa Giêsu như là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu và dân chúng
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thử tìm về thái độ của Chúa Giêsu đối với dân chúng. Như chúng ta đã biết Palestine là một xứ nóng, người ta thường sống ở ngoài đường. Cũng chính ở ngoài đường mà Chúa Giêsu thường tiếp xúc và giảng dạy cho dân chúng. Chung quanh Ngài lúc nào cũng có một đám đông thuộc đủ mọi hạng người: Đau yếu, tàn tật, mù lòa, phong cùi, khổ đau, nghĩa là những người cần đến một sự giúp đỡ nào đó. Ngoài ra còn có những bà mẹ và những đứa con, những người đạo đức và những kẻ tội lỗi. Ngài thường mở rộng vòng tay đón nhận, tiếp xúc và nâng đỡ họ.
Ngày kia khi thuyền vừa cặp bến, thì có một đám đông đã chờ đợi Ngài. Từ trong đám đông, ông Giairô tiến ra xin Ngài đến chữa cho đứa con gái của ông đang hấp hối. Chúa Giêsu liền bước theo ông mà chẳng nói một lời. Rồi giữa đám đông, bỗng dưng Chúa Giêsu quay mặt lại và hỏi: Ai đã động đến Ta. Câu hỏi này làm cho các môn đệ ngạc nhiên và nói: Thầy coi đám đông đang chen lấn thế mà Thầy lại hỏi ai động đến Thầy. Sở dĩ Ngài hỏi như thế là vì muốn giúp người đàn bà đau yếu đã làm hành động ấy được biểu lộ đức tin của mình. Sau khi bà ấy đã xác nhận, Ngài nói với ba: Đức tin của con đã cứu chữa con, vậy con hãy về bình an.
Chúa Giêsu không phải chỉ niềm nở tiếp đón mọi người, nhưng hơn thế nữa, Ngài còn biết cách nói với từng hạng người. Thực vậy với bọn biệt phái, là những kẻ đạo đức giả, vốn kiêu căng và tự mãn, Ngài không ngần ngại gay gắt chỉ trích: Các ngươi giống như mồ mả tô vôi. Các ngươi là những kẻ dẫn đường đui mù. Với những người tội lỗi thì khác, Ngài thấu hiểu nỗi đớn đau và sự giày vò của họ, nên Ngài đã nói với họ bằng tất cả sự tế nhị, để họ thấu hiểu và tìm thấy được niềm hy vọng.
Một đặc điểm đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu luôn sử dụng những hình ảnh cụ thể để diễn tả những chân lý cao siêu. Chẳng hạn Ngài sánh vị Thiên Chúa như một người cha nhân từ mòn mỏi đón chờ đứa con hoang đàng trở về hay như người mục tử đi tìm kiếm con chiên bị lạc mất. Ngài đòi hỏi mỗi người chúng ta phải trở nên như muối mặn, như đèn sáng. Với những người đau yếu, Ngài nói với họ về bệnh tật, về sức khoẻ, nhưng từ đó Ngài dẫn họ tới bình diện siêu nhiên bằng cách nói với họ: Con hãy về bình an. Tội con đã được tha. Sự chữa lành phần xác chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới, cuộc sống thấm nhuần tình thương của Thiên Chúa.
Mặc dù phải tiếp xúc, phải giảng dạy, Ngài cũng biết giữ lấy những khoảng khắc thinh lặng. Ban sáng, ban tối và ban đêm Ngài thường tới những nơi thanh vắng để cầu nguyện. Trước sự tố cáo của bọn biệt phái đối với Người phụ nữ ngoại tình Ngài đã yên lặng. Trước toà án Philatô Ngài cũng đã yên lặng. Sự yên lặng của Ngài lúc này có giá trị như một lời nói. Từ những điều vừa trình bày chúng ta nhận thấy: Qua Đức Kitô, Thiên Chúa đã nói, đã đối thoại với chúng ta, bởi vì Ngài là Lời của Thiên Chúa. Lời ấy hoàn toàn khác biệt với lời của chúng ta. Thực vậy, lời của Thiên Chúa là lời tạo dựng: Ta muốn có trời đất muôn loài vậy lập tức liền có. Lời của Thiên Chúa là lời của chữa lành: Ta muốn con hãy chỗi dậy, Ta muốn con hãy lành sạch. Lời của Thiên Chúa là lời tình yêu: Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Lời của Thiên Chúa là lời Tin Mừng cứu rỗi: Đức tin của con đã cứu chữa con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét