Thứ Hai, 29 tháng 1, 2018

Giêsu Nagiarét

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu là ai? Tôi xin thưa Ngài là một người như chúng ta.
Trước hết Ngài đã có một quê hương và quê hương Ngài là làng Nagiarét.
Đây là một thôn làng nhỏ bé quây quần chung quanh một cái giếng duy nhất. Thôn làng này không có chi nổi bật, nếu không phải là người ta đã có một chút châm biếm và khinh dể khi nghĩ về nó:
- Từ Nagiarét nào có sự gì tốt đâu.
Tiếp đến, Ngài cũng có một gia đình. Gia đình Ngài gồm có thánh Giuse, Mẹ Maria và Ngài. Thực vậy, người ta thường gọi Ngài là con bác thợ mộc Giuse. Nghề thợ mộc là một nghề lặt vặt và đa dạng. Vừa xây cất nhà cửa, vừa đóng bàn đóng ghế và sửa chữa những gì hư hỏng. Có lẽ vào khoảng 12 tuổi, Chúa Giêsu đã học nơi thánh Giuse nghề nghiệp này để kiếm sống.
Mẹ Ngài là Đức Maria, người đã giữ một vai trò quan trọng trong cuộc sống của Ngài. Mẹ Maria đã hòa nhập vào sinh hoạt của dân làng nên mọi người đều biết đến.
Cũng như những gia đình khác, Chúa Giêsu có một tổ tiên, một gia phả. Trong cuốn sổ gia phả này, chúng ta thấy xuất hiện những khuôn mặt không mấy tốt lành. Điều đó muốn nói lên rằng Chúa Giêsu đến để mang lấy tội nhân loại, Ngài muốn mang lấy những đau khổ mà chính chúng ta gặp phải, từ phía gia đình cũng như xã hội. Ngài đã trở nên một người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi: có một quê hương, có một gia đình và có một tổ tiên.
Thời bấy giờ, người ta chưa tổ chức được những trường học như ngày nay. Tất cả những gì Ngài biết, một phần do cha mẹ Ngài truyền dạy, một phần do Ngài lãnh nhận được ở hội đường. Tại đó mỗi ngày thứ bẩy, người ta đều cắt nghĩa Kinh thánh. Chúa Giêsu không phải chỉ hiểu một cách hời hợt, nhưng Ngài đã hiểu đúng ý nghĩa sâu xa của nó. Ngài sống một cuộc sống bình thường, ăn mặc như họ, nói năng như họ.
Chính vì thế, khi Ngài bắt đầu giảng dạy thì những người bà con của Ngài đã ngạc nhiên và tự hỏi:
- Bởi đâu mà Ngài được như thế.
Thánh Giuse đã chết khi Chúa Giêsu còn trẻ, chính vì thế mà Ngài phải cáng đáng mọi công việc nặng nhọc để nuôi sống gia đình.
Khi được 30 tuổi, Ngài đóng cửa xưởng mộc, từ giã mẹ Ngài để lên đường rao giảng Tin Mừng. Bởi vì Ngài là Đấng Messia, người được Thiên Chúa sai đến. Ngài chia sẻ kiếp sống lầm than với mọi người. Có lần đói, Ngài đã muốn ăn một trái vả, có lần khát Ngài đã xin người phụ nữ Samaria cho mình một gáo nước. Cuộc sống êm đềm tại Nagiarét đã chấm dứt, bây giờ là những ngày tháng lang thang vất vưởng:
- Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có lấy một chỗ tựa đầu.
Có lần quá mệt mỏi, Ngài đã thiếp ngủ trên thuyền trong khi các môn đệ cố gắng chèo qua bên kia bờ hồ.
Chúa Giêsu đã chia sẻ một kiếp sống cùng khổ. Thế nhưng, nơi Ngài vẫn có một cái gì là đặc biệt vượt trên khuôn khổ bình thường ấy, vì Ngài chính là Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Là Thiên Chúa Đấng ở khắp mọi nơi, Ngài đã chấp nhận giới hạn trong không gian, cùng với những khổ đau mệt mỏi vì yêu thương chúng ta. Là Thiên Chúa Đấng vĩnh cửu, Ngài chấp nhận có một lịch sử, bị giới hạn vào thời gian vì yêu thương chúng ta. Là một Thiên Chúa Đấng tạo hóa, Ngài đã học một nghề và đã vất vả để kiếm sống cũng vì yêu thương chúng ta. Chỉ với cặp mắt của tình thương yêu, chúng ta mới hiểu được điều đó.
Vì kiêu căng, con người muốn bước lên ngôi Thiên Chúa, thì giờ đây để chữa tội kiêu căng ấy, chính Thiên Chúa đã bước xuống phận con người.



Lịch sử vắn tắt của bức tượng Chúa Hài Nhi Praha linh thiêng

Bức tượng Chúa Hài Nhi Praha là một trong những bức tượng Công Giáo phổ biến nhất thế giới, tuy nhiên không nhiều người biết về nguồn gốc của bức tượng. Lịch sử của bức tượng Chúa rất cuốn hút, liên quan đến nhiều truyền thuyết và phép lạ.

Nhiều nhà sử học tin rằng bức tượng gốc được chạm khắc ở Tây Ban Nha vào khoảng năm 1340, tại một tu viện Xitô. Nhiều truyền thống cho rằng một tu sĩ đã nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng hiện ra và tu sĩ này đã cho khắc bức tượng theo ông nhìn thấy. Bức tượng này được giữ ở Tây Ban Nha vài thế kỷ và cuối cùng được Thánh Têrêsa Avila sở hữu vào thế kỷ 16.

Dù vậy, cuối cùng bức tượng được chuyển đến Praha ở nơi ngày nay là nước Cộng hoà Séc, khi nhà Habsburg thống trị vào năm 1556. Vào thời điểm đó, bức tượng Chúa được quý bà Dona Isabella Manrique tặng cho con gái là Marie Manrique làm quà cưới, khi cô lấy Vratislav người Pernstyn. Truyền thống cho rằng chính Thánh Têrêsa Avila đã tặng bức tượng cho quý bà Isabella.

Bức tượng được lưu truyền trong gia đình cho đến khi được công chúa Polyxena von Lobkowicz tặng lại cho một tu viện Cát Minh trong vùng. Khi đó, công chúa đã nói với tu viện những lời này: "Tôi tặng cho quý sơ điều mà tôi trân quý nhất trong gia sản của tôi. Xin quý sơ hãy giữ gìn bức tượng trong tôn kính và quý sơ sẽ được đầy phúc lành ."

Ngay sau cuộc trao tặng trên, thành Praha bị xâm lược và bức tượng bị thất lạc. Sau đó, một vị linh mục tìm thấy tượng Chúa trong đống đổ nát của một nhà thờ và đặt bức tượng vào một nhà nguyện mới. Khi đang lau chùi bức tượng, vị linh mục nghe Chúa Giêsu Hài Đồng nói với mình: "Hãy thương xót Ta, và Ta sẽ thương xót con. Hãy tặng cho Ta đôi tay và Ta sẽ ban cho con bình an. Con càng tôn kính Ta bao nhiêu, Ta càng chúc phúc cho con bấy nhiêu ." Khi đó, vị linh mục tìm cách gây quỹ để sửa lại bức tượng, Chúa lại phán với ông: "Hãy đặt Ta gần cửa vào phòng thánh và con sẽ được giúp đỡ ." Những gì cần thiết đều được mang đến cách mầu nhiệm và bức tượng được sửa lại thành công.

Kể từ đó, lượng khách hành hương khổng lồ đổ đến cùng tượng thánh Chúa Hài Đồng Praha đã nhận được nhiều phép lạ không thể đếm nổi. Bức tượng được sao chép và được lan truyền ra khắp thế giới, đến nay trở thành mẫu ảnh tượng Chúa phổ biến nhất trong số các ảnh tượng ở các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ailen, Ba Lan, Philippines, Nam Mỹ, ...

Năm 1896, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII chấp thuận lòng tôn sùng Chúa Hài Đồng Praha làm lòng sùng kính hoàn vũ, và thiết lập một hội đạo đức để tôn kính tước hiệu này của Chúa. Ngày 30/3/1913, Thánh Giáo Hoàng Piô X thành lập Hội Anh Em Chúa Giêsu Hài Đồng Praha. Đức Piô XI đội vương miện cho bức tượng vào ngày 27/09/1924. Về sau, ngày 26/09/2009, Đức Bênêđictô XVI đội vương miện cho tượng thánh Chúa lần thứ hai.

  
Gioakim Nguyễn lược dịch
  • Sưu Tầm:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét