Thứ Năm, 25 tháng 1, 2018

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN, NĂM B

CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN, NĂM B
UY QUYỀN CHỈ CÓ Ý NGHĨA NHỜ LỐI SỐNG KHIÊM TỐN
 (Dnl 18,15-20; 1Cr 7,32-35; Mc 1,21-28)
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Là người Công Giáo Việt Nam, hẳn đa số ai cũng biết đến Đấng Đáng Kính, Đức Hồng Y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận. Ngài là vị Hồng Y đặc biệt được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II mời giảng tĩnh tâm cho Giáo Triều dịp Mùa Chay năm thánh 2000. Ngoài sự trổi vượt về đời sống đạo đức, ngài còn là một vị giảng thuyết hết sức lôi cuốn đối với rất nhiều thành phần trong Giáo Hội, nhất là giới trẻ. Người ta đã coi ngài như là một người đầy quyền uy trong lời nói và việc làm!
Lý do Đức Hồng Y được người ta ca tụng như vậy, ấy là bởi vì ngài đã luôn sống yêu thương. Ngài sẵn sàng tha thứ cho những người coi ngài là kẻ thù và làm hại mình. Mặt khác, cuộc sống đơn sơ, giản dị, khiêm nhường, ngôn hành như nhất đã làm cho uy tín của ngài ngày càng lan rộng!
Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại câu chuyện Đức Giêsu vào Hội đường Dothái và giảng dạy. Ngài giảng dạy khác hẳn với những Kinh Sư thời bấy giờ, khiến ai nấy trong Hội đường trầm trồ khen ngợi: “Ông này giảng dạy như một Đấng có uy quyền”.
Lý do tại sao Đức Giêsu được người ta khen ngợi như vậy? Đâu là điều làm cho Ngài trở nên Đấng có uy quyền trong lời nói và hành động? Và, chúng ta học được bài học gì qua phụng vụ Lời Chúa hôm nay?
  1. Ngôn hành bất nhất nơi các Kinh sư
Tin Mừng hôm nay không nói về việc Đức Giêsu giảng gì. Cũng chẳng nói lời giảng của ngài khác với những lời giảng của những nhà thông luật thời bấy giờ ra sao! Tuy nhiên, muốn hiểu được tại sao: thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Đức Giêsu và không ngớt khen ngợi điều mới lạ nơi Giáo lý của Ngài, đồng thời không ngừng tuyên xưng về quyền uy của Đức Giêsu… (x. Mc 1, 22-28), chúng ta cần hiểu về hai cách sống, hai cung cách, hai lối giảng giữa Đức Giêsu và những Kinh sư.
Vào thời bấy giờ, người Dothái luôn coi trọng các Kinh sư, bởi vì họ là những người nắm luật, là thành phần được ngồi trên “ngai tòa Môsê” để giáo huấn. Chính vì lý do đó, nên những người này được dân chúng coi trọng và tin tưởng.
Tuy nhiên, Đức Giêsu lại không chấp nhận những điều họ làm, bởi vì ngôn hành bất nhất. Thế nên, đã nhiều lần, Ngài lên tiếng thẳng thắn nói với dân chúng về điều trái khuấy của những Kinh sư này, Ngài nói: “… những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23, 3). Lần khác, Đức Giêsu đã phân tích sự khập khiễng, mâu thuẫn giữa lời nói và hành động của những Kinh sư, bởi vì: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy […], nào là đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "rápbi" (x. Mt 23, 4-7).
Chẳng những thế, chính Đức Giêsu đã chỉ thẳng mặt và vạch trần tội ác của họ khi nói: khốn cho các người, hỡi các Kinh sư giả hình! Các người không muốn vào nhà, nhưng lại khóa cửa không cho ai vào. Nào là sẵn sàng nuốt tài sản của bà góa nghèo. Giả bộ đạo đức…. (x. Mt 23, 13-14). Các ngươi giống như “… mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế, toàn là giả hình và gian ác! (x. Mt 23, 27-28
Như vậy, họ là những người đáng trách và không có uy quyền trong dân, bởi vì tất cả những điều họ làm không xuất phát từ lòng tôn kính Thiên Chúa, mà là muốn được phô trương thanh thế bề ngoài, còn tâm hồn thì rỗng tuếch!
  1. Ngôn hành như nhất nơi Đức Giêsu
Ngược lại, nơi Đức Giêsu, khởi đi từ mục đích của Ngài xuống trần gian là để loan báo ơn cứu độ, băng bó những tâm hồn đau thương, an ủi kẻ âu lo, chữa lành bệnh tật, giải thoát con người khỏi tội lỗi, nhất là dạy dỗ dân chúng và vạch ra cho họ con đường đưa đến hạnh phúc đích thực là Nước Trời. Không những thế, Ngài luôn mang trong mình lòng xót thương của Thiên Chúa, nên đã đứng về phía những người đau khổ, nghèo khó, cô thế cô thân, những người bị áp bức, bóc lột để bênh vực họ….
Vì thế, từng lời Ngài dạy, từng việc Ngài làm đều ăn khớp với nhau và toát lên tấm lòng mục tử đầy nhân hậu, luôn “ngửi thấy” và “mang trong mình mùi chiên” để cứu chuộc nhân loại khổ đau.
Điểm khác biệt này chúng ta còn nhận thấy, đó là nơi các Kinh sư, những điều họ dạy, họ nói đều phải “căn cứ theo những lời dạy có sẵn trong luật”, còn nơi Đức Giêsu, tất cả "mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ngài (x. Mt 28,18) vì Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
  1. Bài học cho chúng ta hôm nay
Ngày nay, rất nhiều người trong chúng ta đang tìm cách tô vẽ lên con người mình cũng như lựa chọn cung cách ứng xử chẳng khác gì các Kinh sư! Biết bao lần chúng ta loay hoay tìm đủ mọi cách để tô đậm chất tố “kinh sư thời hiện đại” ngay trên con người của mình, để thể hiện uy quyền với anh chị em xung quanh.
Thế nhưng, sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học vô cùng quý giá, đó là: uy tín không hẳn đến từ những lời nói hay, ngon ngọt. Lại càng không phải đến từ những người trong đầu chứa đầy kiến thức, và, hoàn toàn không phải đến từ những kẻ giả hình!
Ngược lại, uy tín và uy quyền lại đến từ những người chân thật, đơn sơ, hiền lành, khiêm nhường. Cuộc đời của Đức Giêsu và câu chuyện về Đức Hồng Y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận đã chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Thật vô cùng ảo tưởng khi củng cố quyền lực bằng những chuyện khua chiêng gõ trống bên ngoài hay bằng tiền bạc hoặc bằng việc củng cố quyền lực qua những thói kêu ngạo giả hình….
Quả thật, uy quyền chỉ có thể thực sự hữu ích cho mình và cho tha nhân khi nó được đặt trong tâm thế của người phục vụ cách vô vị lợi chứ không phải để “ăn trên ngồi trốc” như giới Kinh sư.
Mong sao mỗi người chúng ta khi đã hiểu được sức mạnh, uy quyền của sự khiêm nhường, đơn sơ, ngay thật và thẳng thắn, chúng ta luôn sống điều đã thấy, tin điều đã cảm nghiệm và rập đời sống chúng ta theo mẫu gương của Đức Giêsu, để ngang qua cuộc sống và các mối tương quan hằng ngày nơi mỗi người, uy quyền của Thiên Chúa ngày càng được nhiều tôn nhận và Danh Chúa ngày càng được nhiều người biết đến. Amen.
&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&&

KHÔNG SỢ NGÃ – CHỈ SỢ KHÔNG ĐỨNG LÊN NHƯ PHAOLÔ

Một con người đã trung thành với Đạo Do Thái Giáo, đã rất trung tín với truyền thống cha ông. Phaolô tên thật là Saolô, quê ở Tarsê xứ Cilicia, là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin. Gia đình của Saolô đã nhập tịch Roma nên Ngài cũng là công dân Roma.

Thánh Phaolô có tên là Saolô, sinh vào thập niên đầu của công nguyên, tức là cùng thời với Chúa Giêsu. Tuy là người Do thái, thuộc chi họ Benjamin, nhưng Saolô sinh ra và lớn lên ở Tarsus, thủ phủ của tỉnh Cicilia, nay là miền nam Thổ nhĩ kỳ. Ngài vóc dáng thấp bé, nhưng thông minh vượt xa những người cùng lứa tuổi.

Thở thiếu thời, Phaolô được giáo dục ở Tarsus là một trung tâm nổi tiếng về văn hoá và triết học. Lớn lên, Saolô được gởi lên Giêrusalem, học với Thầy Gamaliel Cả, theo những tiêu chuẩn khắt khe nhất của nhóm Biệt phái. Saolô là một người lỗi lạc trong lãnh vực văn chương và triết học của cả ba nền văn hóa chính thời đó là Hy lạp, La tinh và Do thái. Ngài thuộc lòng Kinh Thánh của người Do thái, tức là bộ Cựu Ước. Saolô hết sức nhiệt thành đối với truyền thống của cha ông (Gl 1:14; Pl 3:5-6; Cv 22:3; 23:6; 26:5)

Saolô là một phần tử hăng say trong nhóm biệt phái và thù ghét các người theo Chúa. Sau khi Saolô tham dự vào việc ném đá Stêphanô cho đến chết, Ngài bắt đầu bách hại Giáo Hội của Chúa Giêsu. Với sự chấp thuận, chuẩn y của thượng tế Do Thái, Saolô xuống Đamas truy lùng những người theo Chúa. Nhưng trên đường đi, hăng say và điên tiết vì tức giận các Kitô hữu, Ngài đã bị một luồng sáng bao phủ và vật ngã.

Biến cố Damas như một nét son thắm nhất trong cuộc đời Thánh Phao-lô. Nó toát lộ gương mặt đại lượng đầy yêu thương của một Thiên Chúa đang đến sát con người để nâng họ dậy từ cơn mê của những lầm tưởng thế gian. 

Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa. Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.

Sự trở lại của Phaolô không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta. Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.

Việc Thánh Phaolô được biến đổi đã tôn thêm vẻ đẹp của tình yêu Thập giá. Nếu trên Thánh giá, Đức Kitô đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm hại mình; thì trong sự kiện Damas, chính Ngài đã khoan thứ đến cùng trước kẻ đang ra tay truy bách thân mình mầu nhiệm của Ngài. Điều này chỉ có thể lý giải bởi tình yêu của Đức Kitô có sức cảm hoá và vực dậy tất cả những gì tưởng chừng đã mất.

Thánh Phaolô đã thực sự bị chinh phục bởi “luồng ánh sáng chói lọi từ trời chiếu xuống” (Cv 22, 6b). Đó là ánh sáng đến từ Đấng Phục Sinh – Ánh sáng của tin vui cứu độ phổ quát. Phaolô là chứng nhân cho tin vui ấy. 

Với thánh Phaolô, sống là Đức Kitô, chết là mối lợi, tức là được về trời. Ngài rao giảng Thập giá Đức Kitô là một cớ vấp phạm cho người Do Thái, là một sự điên rồ đối với dân ngoại. Chúng ta không thể nào ca khen hết công trạng của thánh Phao lô, nhưng chúng ta nhìn vào thánh Phao lô để học gương ngài, để đi theo dấu chân của ngài, bởi lẽ dấu chân của ngài khác dấu chân của Đức Kitô. Ngài xưng mình là tông đồ út nhất trong tất cả các tông đồ. Thế nhưng, tất cả các tông đồ làm nền móng của Giáo hội, còn một mình ngài là cột trụ của Giáo hội để chúng ta thấy được những dấu chân truyền giáo của Phaolô cho dân ngoại quan trọng như thế nào. Một sứ mệnh mà phổ câp ơn cứu độ đến cho toàn thể thế giớ nhờ sứ mệnh của một vị xưng mình là thầy dạy của các dân ngoại.

Kinh nghiệm về sự hoán cải của Thánh Phaolô hướng chúng ta lên Thập giá của Đức Kitô và cuộc Phục Sinh của Người. Ở đó, chúng ta sẽ nhận được ánh sáng của Sự Thật – Tình Thương, không ngừng “chiếu xuống” mỗi người chúng ta và giữa lòng Hội Thánh.

Một khi đã gắn bó với Đức Kitô, chúng ta biết đặt Ngài làm mục tiêu tối hậu trong cuộc chinh phục tâm linh. Biết sống cho giây phút hiện tại bằng niềm tin tuyệt đối: Thiên Chúa sẽ hành động ! Như lời Thánh Phaolô đã chia sẻ:  “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Pl 3, 13-14).

Sống theo gươngThánh Phaolô, chúng ta sẽ lạc quan trên hành trình tìm Chúa. Đó là con đường lâu dài và và thử thách, để từ đó, ta có thể khám phá Thiên Chúa và ý định của Ngài qua những dấu chỉ trên bản thân và cộng đồng. Vấn đề là, ta hãy để cho Thiên Chúa hành động và mau mắn đáp trả tích cực lời mời gọi sống đời chứng nhân Tin Mừng.

Xin cho mỗi người trong chúng ta càng thêm yêu mến thánh Phaolô, chúng ta càng nên giống Đức Kitô hơn. Bởi lẽ, thánh Phaolô đã kêu gọi: “Anh em hãy bắt chước tôi vì tôi bắt chước Chúa Kitô”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét