MUỐN LÀM THÁNH PHẢI LÀM NGƯỜI TRƯỚC ĐÃ
“Muốn làm thánh phải làm người trước đã” (Th. Gioan Bosco).Qua kinh nghiệm giáo dục, và với nhiệt tâm huấn luyện, chinh phục các thanh thiếu niên bụi đời quay về với cuộc sống đời thường, và cao hơn nữa, vươn tới lý tưởng thánh, thánh Gioan Bosco đã để lại một câu nói rất thực tế, nhưng cũng rất thách đố, đòi hỏi nhiều thiện chí và nghị lực của người nghe.
Câu hỏi đối với nhiều người không chấp nhận quan điểm của thánh nhân sẽ là: “Nói vậy thì tôi không phải là người hay sao?” Và “Tại sao để làm một thánh nhân thì tôi cần phải làm một con người trước?”
Điều đó đúng nếu ta chỉ quan niệm con người là một tạo vật có thân xác, có khối óc, có tài năng, biết làm giầu, biết hưởng thụ, thành đạt, và có quyền lực. Nhưng với những đặc điểm vừa kể thực ra chưa làm nên một người; nhất là một con người “tốt”, một con người “tử tế”.
Theo phân tâm học, con người được kết hợp rất mật thiết do ba yếu tố, gồm bản năng (Id), bản ngã (Ego) và siêu ngã (Superego). Bản năng, thôi thúc con người hành động theo những nhu cầu và đòi hỏi tự nhiên. Thí dụ, bản năng sinh tồn, mách bảo cho con người biết đói phải ăn, khát phải uống, và buồn ngủ thì phải ngủ. Trong khi bản ngã thể hiện cái tôi của mỗi người như nóng nảy, ích kỷ, quảng đại, tình cảm, hay đam mê… được quan sát thấy qua lãnh vực tâm lý. Sau cùng là siêu ngã. Từ nơi sâu thẳm và tầng cao của trí tuệ, của hiểu biết, con người biết phải ăn như thế nào, phải vui như thế nào, phải buồn như thế nào, và làm sao để sống, để suy nghĩ, để hành động đúng với tư cách, phẩm giá của một con người.
Khi ba yếu tố hay ba đặc tính căn bản ấy bổ túc cho nhau và phát triển đồng đều lúc đó con người sẽ trở thành một người. Một con người để qua đó, nó có thể trở thành người đàng hoàng, tử tế, lịch sự, biết phải trái, biết hòa đồng, biết sống chung với mọi người. Một con người tốt. Một con người mà những ai thường ngày giao tíếp, gặp gỡ đều quí mến, và cảm thấy từ nơi nótoát ra một sức hấp dẫncó thể chinh phục và cải hóa được ngay cả những cái xấu, cái bất toàn nơi họ. Những thánh nhân, những bậc quân tử, hay những người tốt đều có những sức thu hút và hấp dẫn này.
Khác với con người bản năng, con người bản ngã với cái tôi của mình. Một cái tôi biết vui, biết buồn, biết sướng, biết khổ, biết yêu, biết ghét, biết giận hờn.Ở điểm này, hành động con người bắt đầu tách rời và không lệ thuộc vào những đòi hỏi theo bản năng tức là những hành động chỉ thuộc về loài vật. Nơi tầng cao trong sinh hoạt tự nhiên ấy, đời sống tâm lý, tình cảm được thể hiện qua nụ cười, ánh mắt, bờ môi, qua những cử chỉ âu yếm, săn đón, và nhất là biết hy sinh cho người khác. Và cũng như con người bản năng, con người siêu ngã có thể làm chủ và điều khiển được con người “tâm lý” của mình. Đây là điều mà chỉ có con người với lý trí, hiểu biết mới có và mới có thể làm được, qua những chọn lựa hành vi nhân tính một cách tự do.
Nhưng làm sao để có thể kìm hãm được bản năng, thăng hoa được tình cảm, và phát triển được lý trí, nếu nó suy nghĩ, sống và hành động như một kẻ vô thần.Và vì thế, con người bắt buộc phải tiến đến sự hiểu biết và qui hướng về một Đấng Toàn Năng.Do sự nhận thức và hiểu biết này, con người biết mình phải làm gì, và làm như thế nào dựa theo những định luật của lương tâm, của niềm tin tôn giáo. Với những suy nghĩ tâm linh này, con người mới trở nên một tạo vật vượt trên mọi thụ tạo hữu hình, “Nhân linh ư vạn vật”.
Như vậy làm người không đơn giản, và không dễ dàng, nhất là làm người tốt, người đàng hoàng, tử tế, người đức hạnh.Vì những cái gọi là đàng hoàng, tử tế, và đạo đức ấy chính là những “nhân đức”, hay những hành động tốt được lập đi, lập lại trong nhiều hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống. Và đó là lý do tại sao phải “làm người” trước rồi mới “làm thánh”.
Thật ra, người đức hạnh, người đạo đức đã là một người tốt theo nghĩa tự nhiên. Họ chỉ cần siêu nhiên hóa đời sống của họ bằng một tâm tình qui hướng về Đấng Tối Cao, đồng thời vươn tới và phản chiếu tâm tình ấy qua việc đối xử nhân ái, công bằng, tôn trọng và phục vụ tốt với đồng loại. Được vậy họ chính là những thánh nhân trong cuộc đời này.Là những người rất đáng được tôn trọng dù họ không mang dáng vẻ đáng kính, nổi trội bằng những hành động lớn lao đi nữa. Theo Thánh Têrêsa Calcutta, chúng ta không có nhiều cơ hội làm những việc lớn lao, cao cả, nhưng chúng ta luôn có những cơ hội làm những việc tầm thường, nhỏ bé với tấm lòng và trái tim lớn lao, cao cả.
“Muốn làm thánh thì phải làm người trước đã”.Chúng ta ai cũng đã là người rồi, chỉ còn lại là người như thế nào.Đời sống thánh thiện không quá xa rời thực tế, không vượt quá sức con người, và cũng không phải là một lý tưởng trừu tượng. Sống thánh thiện, sống đạo đức, sống tốt lành là điều mà mọi người có thể làm được trong tin tưởng và cậy trông vào sức mạnh của Thiên Chúa, cùng với việc tận dụng tất cả những điều kiện đã có sẵn trong con người của chính mình. “Ông kia bà nọ nên thánh được tại sao tôi không được?” (Th. Augustine)
NGƯỜI TÍN HỮU VÔ THẦN
Cách nay chừng hai thập kỷ, hai chữ “vô thần” luôn gợi lên trong tâm trí chúng ta một ý thức hệ chính trị đối nghịch với các niềm tin tôn giáo. Hệ thống chính trị này luôn phê phán, tuyên truyền bóp méo, kỳ thị, thậm chí là tìm cách xóa bỏ các tôn giáo. Trong bối cảnh xã hội hôm nay, vô thần không chỉ là khái niệm dành cho những người kỳ thị tôn giáo hoặc vô tín ngưỡng, mà còn diễn tả một tình trạng đáng lo ngại nơi người Kitô hữu: đó là những người mang danh là tín hữu, nhưng lối sống của họ ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong bài giảng thánh lễ tại nhà nguyện thánh Mátta sáng 23-3-2017 vừa qua đã nói đến những người tín hữu bịt tai trước lời mời gọi của Chúa và ngài gọi họ là những người tín hữu vô thần.
Đức Thánh Cha nói: “Khi chúng ta không chăm chú nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ lánh xa Ngài và quay lưng lại với Ngài. Nếu chúng ta không lắng nghe Lời Ngài, chúng ta sẽ tìm nghe những lời khác…Khi khước từ Lời Chúa và khi cứng lòng, chúng ta sẽ trở thành những người công giáo bất trung, những người dân ngoại, và tệ hại hơn, những người công giáo vô thần, bởi vì chúng ta không yêu mến Thiên Chúa hằng sống” (Nguồn: Zenit, 24-3-2017). Theo vị Chủ chăn của Giáo Hội, khước từ Lời Chúa (mà ngài gọi là “điếc”) sẽ dẫn đến tình trạng thờ ngẫu tượng, tức là tôn thờ vật chất và những đam mê trần tục. Việc chối bỏ Lời Chúa cũng dẫn đến hậu quả là lầm lẫn trong nhận định, trong phân biệt giữa điều thiện và điều ác.
Người Kitô hữu có Lời Chúa là kim chỉ nam cho cuộc đời. Chúa Giêsu đã so sánh những ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, sẽ giống như người xây nhà trên nền đá, luôn bền vững trước bão tố mưa sa. Ngược lại, những ai không thực hành Lời Chúa giống như người xây nhà trên cát, sẽ sập đổ khi nước lũ dâng tràn (x. Mt 7,24-27). Thiên Chúa vẫn luôn luôn ngỏ lời với chúng ta, qua Giáo Hội và qua những biến cố xảy đến xung quanh, nhất là qua Lời Chúa trong Thánh Kinh. Thiếu ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta mất phương hướng và đi trong lầm lạc.
Trong thực tế, tình trạng những tín hữu vô thần khá phổ biến nơi các cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta.
Có những người tin Chúa mà vẫn vô thần, vì họ không gặp gỡ Chúa và tâm sự với Ngài trong lời cầu nguyện. Vì thế, trong đời sống của họ thiếu những “khoảng lặng” để suy tư về hạnh kiểm của mình. Đối với họ, Thiên Chúa chỉ giống như một khái niệm. Đức Giêsu chỉ thuần túy là một nhân vật lịch sử xa xưa và giáo huấn của Người cũng chỉ là một mẫu gương luân lý. Người tín hữu không cầu nguyện giống như xác không hơi thở. Thánh Gioan Maria Vianey đã viết: “Lời cầu nguyện cần thiết cho người tín hữu, giống như mưa cần thiết cho đất trở nên màu mỡ”. Quả vậy, lời cầu nguyện là cầu nối giúp ta gặp gỡ Chúa, tiếp nghị lực siêu nhiên từ Ngài. Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI khẳng định: “Tin là sự gặp gỡ với một biến cố, một Con Người, Đấng đem lại cho đời sống chúng ta một chân trời mới và từ đó, một định hướng dứt khoát” (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 1). Sự gặp gỡ này thể hiện qua lời cầu nguyện. Đời sống nội tâm giúp ta càng ngày càng gắn bó với Chúa, nhận ra sự hiện diện của Ngài mọi nơi mọi lúc. Cảm nhận được sự hiện diện cao quý ấy, chúng ta sẽ mở rộng con tim, chăm chú lắng nghe và thực hiện lời Ngài. Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong đời, chúng ta sẽ sống cao thượng hơn đối với những người xung quanh, sẽ dễ dàng tha thứ cho những xúc phạm. Xác tín có Chúa đồng hành trên mọi nẻo đường của cuộc sống, chúng ta sẽ nhìn mọi sự việc, mọi con người với cái nhìn mới, bao dung quảng đại và kiên nhẫn vị tha. Như thế, khi sống ở đời này, dù còn nhìn thấy Chúa mờ mờ như trong gương, lòng chúng ta đã kiên vững và được sưởi ấm, vì chúng ta tin vào sự hiện diện và tình thương yêu của Ngài trong giờ phút hiện tại. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Tôi kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Đức Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình” (Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, số 3).
Có những người tin Chúa mà vẫn vô thần, vì ngôn hành của họ trong cuộc sống đời thường không tương ứng với đức tin mà họ tuyên xưng. Đối với họ, giáo lý Kitô giáo rất cao đẹp và đầy tính nhân văn, nhưng chỉ dừng lại ở lý thuyết, mà không được thể hiện trong cuộc sống. Nói cách khác, đời sống của họ không được xây dựng trên nền tảng đức tin, cũng không được đức tin soi dẫn. Lời Chúa mà họ nghe thường xuyên, chỉ giống như những thông tin trên các phương tiện truyền thông. Hậu quả là có những người mang danh công giáo mà vẫn gian dối, vẫn chia rẽ bè phái. Khi không ưng ý trong Giáo Hội thì họ phản ứng theo kiểu thế gian. Với một đức tin hời hợt và bề ngoài, khi phải lựa chọn, họ sẵn sàng nghiêng về phía lợi lộc vật chất và từ bỏ Luật Chúa; sẵn sàng gạt bỏ tiếng nói của lương tâm để nghe theo tiếng gọi của tiền bạc. Đây đó, vẫn có trường hợp cha mẹ công khai chối bỏ đức tin để con mình được vào học tại một số trường chuyên ngành hay làm việc ở một số cơ quan của nhà nước. Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Không phải tất cả những ai nói với Thầy: ‘Lạy Chúa, Lạy Chúa’, là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Do ảnh hưởng của quan niệm xã hội ngày nay, nhiều cá nhân và hội đoàn có khuynh hướng phô diễn đời sống đức tin qua những sinh hoạt tôn giáo sầm uất, nhưng tiếc thay, chỉ dừng lại bề ngoài. Vì thế, họ coi nhẹ việc học giáo lý để củng cố đức tin và tình hiệp nhất giữa các thành viên của một hội đoàn đạo đức. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc lên án những người biệt phái và luật sĩ. Người ví họ như những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp đẽ, bên trong thì thối tha. Chúa Giêsu đã nhắc lại giáo huấn của ngôn sứ Isaia, lên án những người chỉ tôn thờ Chúa bề ngoài như sau: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta (Mc 7,6).
Trong phần kết thúc bài giảng tại nhà nguyện thánh Mátta, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người hãy kiểm điểm lương tâm trước mặt Chúa qua những câu hỏi: “Tôi có chuyên tâm nghe Lời Chúa không?”; “Tôi có cứng lòng trước lời dạy của Chúa không?; “Tôi có đánh mất lòng trung tín với Chúa và chạy theo tôn thờ những ngẫu tượng đang tràn lan trong cuộc sống hôm nay không?” “Phải chăng tôi đã đánh mất niềm vui của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu?”. Thiết tưởng mỗi chúng ta cần suy tư nghiêm túc để trả lời những câu hỏi này, nhờ đó Mùa Chay trở nên mùa hồng phúc cho chúng ta.
Mến Chúa, yêu người, đó là hai điều răn trọng nhất của Kitô giáo. Nói đúng hơn, đó chỉ là một giới răn duy nhất, tức là tình yêu. Tình yêu ấy hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Người tín hữu đúng nghĩa là người thực thi tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Chúa Giêsu đã đưa ra tiêu chí cho tình yêu này: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như mình ta vậy. Thực hành được những tiêu chí này, chúng ta sẽ là người Kitô hữu đích thực. Thiếu những điều kiện trên, chúng ta có nguy cơ trở thành vô thần.
“Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: ‘Các ngươi chớ cứng lòng’ ” (Tv 94, 8). Ước gì mỗi chúng ta hãy để cho Lời Chúa thẩm thấu tâm can, trở nên con người mới, để hình ảnh của Chúa luôn tỏa rạng nơi cuộc đời tín hữu chúng ta.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét